(TN&MT) - Xây dựng là một ngành công nghiệp sử dụng khối lượng vật liệu nhiều nhất, nghiên cứu và sử dụng các loại vật liệu mới thân thiện với môi trường, hạn chế tàn phá thiên nhiên là điều cấp thiết. Tuy vậy, thực tế, số công trình sử dụng vật liệu xanh vẫn còn hạn chế.
Quy định mới chỉ trên giấy!
Hiện nay, việc đưa vật liệu xây không nung (VLXKN) vào các công trình xây dựng là một chủ trương đúng đắn của Chính Phủ và Bộ Xây dựng. Tuy nhiên, qua 4 năm triển khai, VLXKN vẫn khó có thế thâm nhập sâu vào thị trường.
Thống kê cho thấy hiện nay cả nước có khoảng 900 cơ sở sản xuất vật liệu xây không nung, với tổng công suất 1.529 triệu viên (quy tiêu chuẩn)/năm. Tính cả khoảng 350 cơ sở sản xuất có công suất rất nhỏ (dưới 1 triệu viên/năm), tổng công suất gạch không nung là khoảng 1.700 triệu viên/năm. Việc tiêu thụ, sử dụng vật liệu xây dựng không nung vào công trình xây dựng còn rất hạn chế, không tương xứng với năng lực đã được đầu tư, chỉ chiếm khoảng 50%. Riêng bê tông nhẹ chỉ khai thác dưới 15% công suất.
Theo quy định của Bộ Xây dựng, tại các đô thị loại 3 trở lên phải sử dụng 100% vật liệu xây dựng không nung kể từ 15/1/2013; các khu vực còn lại phải sử dụng tối thiểu 50% vật liệu xây dựng không nung từ thời điểm có hiệu lực đến hết năm 2015, sau năm 2015 phải sử dụng 100%.
Lộ trình là thế nhưng theo nhiều chuyên gia, hiện rất khó thuyết phục chủ đầu tư sử dụng vật liệu nhẹ, gạch không nung và các loại vật liệu tiết kiệm năng lượng trong tòa nhà bởi đa phần họ chưa nắm đầy đủ thông tin về hiệu quả một công trình "xanh" mang lại về lâu dài, đặc biệt về mặt tiết kiệm năng lượng. Người tiêu dùng vẫn chưa có lòng tin vào vật liệu xanh.
Vật liệu xanh – xu hướng phát triển trong tương lai
Trong khi đó, hàng năm khối lượng bê tông xi măng sử dụng trên toàn cầu vượt quá con số 13 tỷ tấn. Tương ứng cần phải sử dụng gần 1.9 tỷ tấn xi măng. Tính riêng ngành sản xuất xi măng thải ra khoảng 5% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính trên toàn cầu và một lượng đáng kể khí NOx và các khí gây ô nhiễm khác như SO2. Trung bình để sản xuất ra 1 tấn xi măng cần xấp xỉ 1.7 tấn các nguyên liệu thô và thải ra khoảng 1 tấn khí CO2.
Lợi ích còn để ngỏ
Ở Việt Nam, lượng chất thải phát ra từ sinh hoạt và các ngành công nghiệp đang là gánh nặng đè lên vai môi trường sống. Trong số các chất thải đó, khoảng 14 chất thải rắn và lỏng hoàn toàn có thể tái sử dụng có hiệu quả trong lĩnh vực xây dựng như: chất thải phá dỡ từ các công trình xây dựng; chất thải kim loại, chất thải từ các nhà máy nhiệt điện, chất thải từ các nhà máy luyện thép, chất thải thủy tinh, chất thải lốp xe, chất thải bao bì nhựa, chất thải từ mặt đường cũ, chất thải trong khai thác các loại cốt liệu, chất thải vỏ trấu, dầu thải các loại…
Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn cần phá dỡ hàng loạt các công trình cũ, hết tuổi thọ khai thác để xây dựng mới. Năng lượng tiêu thụ để sản xuất một số vật liệu xây dựng phổ biến công trình phá dỡ sẽ rất lớn. Chúng hoàn toàn có thể tái sử dụng lại trong xây dựng mới, nhất là làm cốt liệu. Nếu tận dụng triệt để chúng sẽ giảm thiểu đáng kể lượng vật liệu khai thác từ thiên nhiên.
Nhiều ý kiến cho rằng, giá thành cao thường được nhìn nhận là rào cản cho sự phát triển vật liệu xanh, nhưng trên thực tế chưa hẳn là như vậy. Hiện nay, các giải pháp vật liệu xanh tiên tiến trên thế giới đã được mang vào Việt Nam từ các tập đoàn hàng đầu thế giới.
Chi phí tính theo m2 tường của vật liệu xanh là khá cao so với gạch đất sét nung truyền thống, nhưng nếu đưa vào thiết kế ngay từ đầu sẽ giảm được chi phí móng, giảm kích thước kết cấu, giảm chiều cao tầng, tiết kiệm năng lượng điều hòa do tính cách nhiệt cao. Tốc độ thi công nhanh hơn tường gạch nung, giúp rút ngắn thời gian xây dựng, sớm đưa công trình vào sử dụng, giảm chi phí lãi vay đầu tư. Vì vậy, nếu so về tổng thể lâu dài, giải pháp xanh sẽ ưu thế hơn về giá và các lợi ích dài hạn khác cho môi trường, xã hội.
Thủ tướng Chính phủ mới đây đã ban hành quyết định 1469 (22/08/2014) phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Quy hoạch nêu rõ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải xây dựng và ban hành lộ trình chấm dứt hoạt động của các loại lò sử dụng công nghệ lạc hậu. Tùy theo điều kiện cụ thể, khuyến khích các địa phương chấm dứt hoạt động đối với các lò vòng không sử dụng nhiên liệu hóa thạch. |
Phương Anh