Ứng phó với BĐKH: Tăng khả năng thích ứng, phát triển sinh kế bền vững

27/10/2015 00:00

(TN&MT) - Gần một thập kỷ qua, Việt Nam đã tích cực triển khai xây dựng chính sách cũng như thực hiện các dự án ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH). Những chuyển biến về nhận thức cũng như đầu tư cho công tác này có bước tiến rõ rệt. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu là một thách thức quá lớn. Và để đảm bảo những an toàn cần thiết, nỗ lực sẽ không ngừng nghỉ.

Trao đổi với Báo TN&MT, ông Trương Đức Trí, Phó Cục trưởng Cục Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu cho biết, các định hướng trong thời gian tới để việc ứng phó với BĐKH được hiệu quả.

Ông Trương Đức Trí
Ông Trương Đức Trí

Thưa ông, nhằm ứng phó với BĐKH, thời gian qua Việt Nam đã ban hành và triển khai hàng loạt các chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu như: Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH, Chiến lược quốc gia về BĐKH, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Nghị quyết số 24 của Trung ương Đảng về chủ động ứng phó với BĐKH, bảo vệ TNMT... Đến thời điểm này, chúng ta đã đạt được những kết quả nổi bật nào, thưa ông?

Ông Trương Đức Trí: Tính từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia về BĐKH đầu tiên, năm 2008  đến nay, kết quả nổi bật nhất là đã huy động được sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, từ Đảng, Quốc hội, chính phủ, các cấp, các ngành, từ trung ương đến địa phương trong công tác ứng phó với BĐKH.

Chính từ sự quan tâm vào cuộc tích cực này mà nhận thức, ý thức và trách nhiệm của người dân trong công cuộc ứng phó với BĐKH được tăng lên, đặc biệt là người dân khu vực ven biển, khu vực miền núi, khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nơi chịu tác động trực tiếp của BĐKH đã có nhiều hoạt động thiết thực trong công tác thích ứng với BĐKH để duy trì, phát triển sinh kế bền vững.

Từ nhận thức đúng đắn, Nhà nước đã dành nguồn đầu tư không nhỏ từ ngân sách Nhà nước cho các hoạt động ứng phó với BĐKH. Nhiều Chương trình quy mô quốc gia được triển khai đồng bộ như Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với BĐKH (NTP-RCC), Chương trình Hỗ trợ ứng phó với BĐKH (SP-RCC), Chương trình khoa học công nghệ quốc gia về BĐKH…

Đánh giá cao sự chủ động, nỗ lực của Việt Nam trong công cuộc ứng phó với BĐKH toàn cầu, cộng đồng quốc tế đã hỗ trợ đáng kể về nguồn lực tài chính, tri thức và công nghệ cho Việt Nam trong công cuộc này.

Với tầm nhìn xa, Việt Nam không chỉ chú ý đến các biện pháp thích ứng mà còn xây dựng, ban hành nhiều nhiều chính sách giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, nhân rộng nhiều mô hình thí điểm thích ứng với BĐKH hiệu quả. Nhiều dự án đầu tư ứng phó với BĐKH đã và đang tiếp tục được thực hiện, từng bước ổn định đời sống cho nhân dân, nhất là người dân ở các địa phương ven biển.

Chủ trương của Việt Nam là phấn đấu đến năm 2020, về cơ bản chủ động thích ứng với BĐKH, phòng tránh thiên tai, Vậy trong thời gian tới, Việt Nam cần chú trọng vào những nhiệm vụ nào, thưa ông?

Ông Trương Đức Trí: - Tôi cho rằng, để tạo tính chủ động và đề xuất được các chính sách có tính dự báo tốt, tầm nhìn xa, Việt Nam cần tăng cường đầu tư cho công tác dự báo, cảnh báo thiên tai và giám sát biến đổi khí hậu. Trong 5 năm tới, chúng ta cần xây dựng và ban hành Kế hoạch thích ứng quốc gia cũng như kế hoạch thích ứng cho từng ngành, từng lĩnh vực, từng khu vực, nhất là những lĩnh vực dễ bị tổn thương như nông nghiệp, thủy sản, tài nguyên nước, đa dạng sinh học.

Để tăng khả năng thích ứng, còn cần đẩy mạnh các nghiên cứu về công nghệ, thiết bị mới thân thiện với khí hậu; các giống mới có khả năng thích nghi với độ mặn cao, thích nghi với nhiệt độ cao, thích nghi với hạn hán gia tăng.

Một việc cần làm thường xuyên liên tục là tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức của người dân trong việc khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên nước.

Mô hình rừng - tôm phát triển bền vững ở vùng ven biển Bạc Liêu
Mô hình rừng - tôm phát triển bền vững ở vùng ven biển Bạc Liêu

Vậy đối với vấn đề đầu tư, đâu là các trọng tâm, thưa ông?

Ông Trương Đức Trí: - Để nguồn đầu tư được hiệu quả, chúng ta đã xác định 4 trọng tâm lớn. Đó là: Trồng, phục hồi rừng ngập mặn ven biển tạo đê mềm chắn sóng, nước dâng, tăng cường khả năng hấp thụ CO2 và tạo sinh kế bền vững cho người dân; Trồng, phục hồi rừng phòng hộ đầu nguồn nhằm tăng khả năng giữ nước, chống xói mòn, nâng cao độ che phủ, giảm thiệt hại do lũ, lũ quét, sạt lở đất, bảo vệ các công trình hạ lưu, điều hòa khí hậu, duy trì và phát triển sinh kế bền vững; Xây dựng, nâng cấp, các hồ chứa nước ngọt phục vụ sản xuất trong bối cảnh hạn hán, xâm nhập mặn gia tăng; Xây dựng, nâng cấp các đoạn đê biển, đê sông kết hợp các giải pháp công trình mềm ở những khu vực có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến sản xuất, tính mạng và đời sống nhân dân.

Thưaông, Việt Nam đang đẩy mạnh hợp tác quốc tế cũng như huy động nguồn lực tài chính như thế nào trong công tác ứng phó với biến đổi khí hậu?

Ông Trương Đức Trí: - Là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề nhất do BĐKH gây ra, do vậy nhu cầu đầu tư cho ứng phó với BĐKH ở Việt Nam là rất lớn, nhất là những khu vực dẽ bị tổn thương như khu vực ven biển và đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh sự nỗ lực của Chính phủ, của các Bộ, ngành và các địa phương, Việt Nam rất cần sự hỗ trợ nguồn lực của các đối tác, các quốc gia phát triển, do vậy hợp tác quốc tế về BĐKH được Việt Nam quan tâm đặc biệt trong những năm qua. Sự nỗ lực cũng như các cam kết chính trị của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới được cộng đồng quốc tế đánh gia cao.

Thông qua hợp tác quốc tế, Việt Nam đã huy động được nguồn lực tài chính đáng kể, chỉ tính riêng sự hỗ trợ thông qua Chương trình SP-RRC là gần 1,3 tỷ USD.

Gần đây nhất, cuối tháng 9 vừa qua, Việt Nam đã đệ trình cho Ban Thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu về Báo cáo đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định (INDC), trong đó Việt Nam cam kết đến năm 2030, bằng nguồn lực trong nước, Việt Nam sẽ giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính và có thể giảm tiếp đến 25% nếu nhận được hỗ trợ quốc tế. Cùng với cam kết mạnh mẽ này, việc xây dựng và triển khai có hiệu quả các hành động chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu trong giai đoạn 2016-2020 là nền tảng quan trọng để chúng ta tiếp tục nhận được sự ủng hộ và hỗ trợ nguồn lực tài chính của các đối tác phát triển cho công cuộc ứng phó với BĐKH ở Việt Nam. 

Nhật Tân (thực hiện)

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Ứng phó với BĐKH: Tăng khả năng thích ứng, phát triển sinh kế bền vững
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO