Hội thảo nhằm trao đổi, chia sẻ và cập nhật thông tin về các chiến lược, chương trình, kế hoạch quốc gia về ứng phó biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; thảo luận tình hình triển khai các hoạt động ứng phó biến đổi khí hậu, xác định các khoảng trống, ưu tiên và định hướng ứng phó biến đổi khí hậu để đạt được các mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu trong bối cảnh mới.
Phát biểu tại Hội thảo, bà Phạm Thị Thanh Ngà, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu cho biết, tại COP26, Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ nhằm thúc đẩy việc thực hiện Thỏa thuận Paris như Hiệp ước Khí hậu Glasgow, Net-Zero vào năm 2050, Cam kết mêtan, Tuyên bố về sử dụng rừng và đất… Kết quả từ COP26 cũng cho thấy, Việt Nam là một thành viên tích cực đóng góp vào mục tiêu toàn cầu, nỗ lực đảm bảo khả năng thích ứng của cộng đồng trước các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu đang diễn ra với tốc độ nhanh hơn so với dự báo.
Trước những thách thức về biến đổi khí hậu và phát triển bền vững đòi hỏi hợp tác liên ngành của tất cả các bên tham gia trong xã hội và các cấp chính quyền, từ địa phương đến trung ương, đồng thời huy động nguồn lực từ các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
Theo bà Julia Behrens – Giám đốc dự án Biến đổi khí hậu và năng lượng, Viện FES, các xung đột trên thế giới trong thời gian gần đây một lần nữa cho thấy tầm quan trọng của việc giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Nhìn từ góc độ quốc gia, Việt Nam không quá bị phụ thuộc nguồn năng lượng vào nước khác. Điều này đã giúp Việt Nam có tầm nhìn xa với mục tiêu phát thải ròng bằng 0 và thực hiện những chính sách mang lại lợi ích cho môi trường và cho người dân.
Trong quá trình triển khai dự án Khí hậu và năng lượng châu Á, FES nhận ra rằng, biến đổi khí hậu không chỉ là vấn đề khoa học hoặc công nghệ mà còn là vấn đề xã hội. Cho nên, các giải pháp cho về tăng trưởng xanh cần phải song hành với bảo đảm sức khỏe và thu nhập cho người lao động, chú trọng bảo vệ các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong BĐKH.
Theo CCWG, các sáng kiến kinh tế xanh có thể giảm thiểu tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng kinh tế do Covid-19, đồng thời, thúc đẩy các giải pháp phục hồi theo hướng chuyển từ tư duy tăng trưởng kinh tế truyền thống, phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch sang tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường, công bằng xã hội, đảm bảo sức khỏe và an ninh lương thực cho người dân. Đây chính là những yếu tố phát triển bền vững cốt lõi.
Về những công việc triển khai sau hội nghị COP 26, bà Chu Thanh Hương, đại diện Cục Biến đổi khí hậu (Bộ TN&MT) cho biết, các Bộ, ngành, địa phương hiện đang tổ chức xây dựng Kế hoạch hành động thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26 và hoàn thiện Đề án triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26. Bên cạnh đó, đề xuất các chương trình, dự án, nhiệm vụ cụ thể và nhu cầu về vốn, chuyển giao khoa học và công nghệ, nhân lực… nhằm triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26; xác định nhu cầu hợp tác với các đối tác phát triển, định chế tài chính.
Tại hội thảo, đại diện đến từ Viện KH KTTV&BĐKH, Liên hiệp Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Trung Tâm Phát triển Nông thôn Bền vững (SRD), Mạng lưới CCWG, cùng các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực đã chia sẻ về kinh nghiệm triển khai các hoạt động ứng phó biến đổi khí hậu, xác định các khoảng mới nổi trong xây dựng và thực hiện chính sách để đạt được các mục tiêu quốc gia được cập nhật tại COP26. Đại diện Đại sứ quán Anh tại Việt Nam cũng đã trình bày những hỗ trợ của Vương quốc Anh – nước chủ nhà COP 26 cho công tác ứng phó BĐKH trong thời gian tới.
Hội thảo nhấn mạnh vai trò của nhóm các tổ chức xã hội dân sự về biến đổi khí hậu tại Việt Nam cho quá trình phục hồi xanh. Họ đang giúp tư vấn cho chính phủ, các nhà tài trợ và đối tác phát triển về các chính sách và cơ chế thực thi mang tính bao trùm. Các tổ chức này cũng thúc đẩy và giám sát việc xây dựng chính sách, thực hiện các dự án; đánh giá và truyền thông về mặt lợi ích, cũng như tác động tiềm tàng của BĐKH và nhiên liệu hóa thạch đến cộng đồng và nhóm dễ bị tổn thương; triển khai các hoạt động nâng cao nhận thức cộng đồng về tác động của BĐKH lên các mặt xã hội và sức khỏe; giới thiệu các mô hình, công nghệ và thực hành tốt đến các nhà hoạch định chính sách...
Đại diện hai mạng lưới VCCA và CCWG cũng đã chia sẻ một số khuyến nghị được tổng hợp từ khảo sát với các tổ chức để thúc đẩy quá trình xây dựng và thực hiện chính sách khí hậu. Theo đó, cần thúc đẩy sự phối hợp giữa các Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Công Thương, Bộ NN&PTNT, Bộ Tài chính trong triển khai các Chương trình, chiến lược về bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh, sản xuất và tiêu dùng bền vững, mua sắm công bền vững hướng tới đạt được các cam kết của VN tại COP26.
Tại địa phương, cần có các hướng dẫn thực hiện cụ thể giúp các địa phương triển khai các chính sách quốc gia phù hợp với điều kiện của mình theo lộ trình rõ ràng nhằm lồng ghép ứng phó với BDKH vào các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội các cấp.
Cần tiếp tục triển khai các chương trình, kế hoạch cụ thể và thực tiễn nhằm tăng cường khả năng tiếp cận thông tin, nâng cao nhận thức của người dân về chính sách, các chương trình ứng phó với BĐKH cấp quốc gia và địa phương. Các thông tin và hình thức truyền tải rõ ràng, dễ hiểu hướng tới huy động sự tham gia của từng cá nhân, cộng đồng, các tổ chức xã hội và đối tác đóng góp cho các mục tiêu khí hậu quốc gia.
Các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương nhất bởi BĐKH như trẻ em, thanh thiếu niên, phụ nữ, các cộng đồng Dân tộc thiểu số, nông thôn, miền núi… cần tham gia nhiều hơn vào quá trình xây dựng, triển khai các chính sách tại địa phương và cộng đồng.