Không phân biệt quốc tịch màu da
Tôi gọi điện cho cựu binh Đại tá Trần Văn Giáo - nguyên là máy phó của tàu HQ-11 anh hùng trong sự kiện cứu phi công Mỹ ở đảo Đá Lớn năm 1988. Từ đầu dây điện thoại, ông Giáo hào sảng: “Được thôi. Chuyện cứu phi công Mỹ thì dài lắm. Tôi luôn sẵn sàng”.
Sau cuộc hẹn ngắn ngủi qua điện thoại, những cựu binh của tàu 11 anh hùng ngày ấy có mặt đông đủ tại nhà riêng của Thượng tá Hoàng Văn Thể - thuyền trưởng 22 năm gắn bó với tàu săn ngầm 11. Cuộc hội ngộ đặc biệt sau nhiều năm sự kiện cứu phi công Mỹ đã lùi vào dĩ vãng. “Dẫu đã hơn 1/3 thế kỷ, nhưng chúng tôi quên được. Đó là một kỷ niệm rất đẹp trong cuộc đời lính biển của tôi”- cựu binh Giáo nói. Còn Thượng tá Hoàng Văn Thể rất tự hào: “Tôi tin sự kiện ấy đã góp phần kéo Mỹ và Việt Nam xích lại gần nhau hơn. Phía Mỹ cũng nhìn nhận về bộ đội Việt Nam một cách thân thiện hơn rất nhiều”. Trong khi đó, cựu binh Nguyễn Hữu Tuấn nói: “Nhờ có các chiến sĩ tàu 11 cứu sống, mà sau này người nữ phi công sinh con và đặt tên con là Navy Eleven” (Hải quân 11).
Từ trái qua: Cựu binh Đại tá Trần Văn Giáo, cựu binh Lê Hữu Giáp, Thượng tá Hoàng Văn Thể, cựu binh Nguyễn Huy Tuấn |
Sau những phút giây gặp gỡ xúc động giữa các cựu binh: Hoàng Văn Thể, Trần Văn Giáo, Nguyễn Huy Tuấn, Nguyễn Quang Tạo, Lê Hữu Giáp, ký ức xa xưa ùa về. Đại tá Giáo kiêu hãnh: “Trong suốt đời lính biển của tôi, sự kiện cứu 3 phi công Mỹ năm 1988 là kỷ niệm không thể nào quên. Bây giờ đã về đời thường, nhưng ký ức những ngày đi biển luôn trào dâng mỗi khi có ai nhắc tới sự kiện 3 phi công Mỹ được cứu sống ngày ấy”.
Nhấp thêm ngụm trà, ông Giáo kể: Hôm đó, vào hồi 11 giờ 15 phút trưa 10/7/1988 như thường lệ, cán bộ chiến sĩ tàu HQ-11 ăn cơm vừa xong, chuẩn bị nghỉ trưa thì bất chợt phát hiện tiếng máy bay gầm rú phía đông đảo Đá Lớn. Chỉ vài phút sau, chiếc máy bay dạng vận tải quân sự vụt tới lắc lư như có ý xin hạ cánh. “Toàn tàu báo động chiến đấu khẩn cấp” - tiếng thuyền trưởng Đại úy Nguyễn Quang Tạo hô lớn. Một hồi kẻng báo động chiến đấu vang lên từ phòng trực ban. Tất cả vào vị trí chiến đấu.
Lúc này chiếc máy bay loạng choạng phía Bắc đảo Đá Lớn, rồi đâm nhào xuống biển cách tàu 1 hải lý. Tất cả cán bộ chiến sĩ trên tàu chỉ kịp nhìn thấy một luồng sóng trắng xóa, rồi từ đó, xuất hiện một chiếc phao cao su, trên phao có 3 người. Thuyền phó quân sự Đại úy Hoàng Văn Thể nhận lệnh hạ hai xuồng cứu sinh và trực tiếp chỉ huy một tiểu đội nhanh chóng cơ động về phía máy bay gặp nạn cứu người. Giữa sóng to gió lớn, hai chiếc xuồng cứu sinh nhỏ bé như chực bị nuốt vào lòng biển cứ chồm lên ngụp xuống. Quần áo cán bộ chiến sĩ ướt sũng. Khi tiếp cận, những người bị nạn vô cùng hoảng sợ. Xung quanh họ là một màu nước biển vàng chói. Thì ra họ đã kịp giật nắp những chai thuốc phát tín hiệu cấp cứu lúc máy bay vừa chìm. Một phi công đang cầm bộ đàm liên lạc với người của họ. Nêu cao tinh thần cảnh giác, thuyền phó quân sự Hoàng Văn Thể đã yêu cầu thu bộ đàm liên lạc và nói bằng tiếng Anh: “Chúng tôi là cán bộ chiến sĩ Hải quân Việt Nam. Chúng tôi sẵn sàng cứu các bạn”. Vẻ mừng rỡ lộ rõ trên khuôn mặt các phi công.
Tàu 11 làm nhiệm vụ trên biển |
Một phi công nữ nói và ra hiệu chị đang có thai, xin được cứu. “Sau khi nghe nữ phi công nói như vậy, tôi liền ra lệnh cho tổ xuồng nhanh chóng chuyển họ xuống xuồng rồi đưa về tàu. Lên tàu, chúng tôi tổ chức đón tiếp ân cần, thân thiện và khám sức khỏe cho phi công nữ đang mang thai. Biết cái thai vẫn an toàn, chị đã khóc. Tên chị là Stein Necker - nhân viên, còn hai người kia là Richard Kamaurer - chỉ huy tổ lái và nhân viên Michael Rneel”, Thượng tá Thể hồi tưởng lại.
Ngay sau khi 3 phi công Mỹ ổn định tinh thần, thuyền phó Thể đã cử Trung úy máy trưởng Nguyễn Huy Tuấn - người nói tiếng anh giỏi nhất trực tiếp làm việc với 3 phi công gặp nạn. Qua tiếp xúc được biết họ là thành viên của đoàn bay CT-39-NALO192 thuộc Hải quân Mỹ (Hạm đội Thái Bình Dương). Hôm đó, họ đi làm nhiệm vụ từ Singapore đến căn cứ Hải quân Subic (Philippines) thì gặp thời tiết xấu, máy bay không thể hạ cánh được, khi bay vòng ra biển thì gặp nạn.
Trưa ấy, 106 cán bộ chiến sĩ toàn tàu HQ-11 không ai chợp mắt. Họ mừng vì đã cứu được 3 phi công Mỹ an toàn. “Cứu người là mệnh lệnh không lời. Bất cứ ở điều kiện nào, cứu người là trên hết. Tình người cao hơn sóng biển, không có biên giới, không phân biệt chiến tuyến, màu da, dân tộc”, cựu binh Tạo xúc động chia sẻ.
Đảo Đá Lát hiên ngang giữa Trường Sa |
Nhịn tắm, sữa dành cho bạn
Vào thời điểm ấy, tàu HQ-11 đi làm nhiệm vụ trên biển đã 73 ngày. Lương thực thực phẩm, rau xanh, nước ngọt đã sắp cạn. Giữa biển khơi bao la nắng và gió, hơn 100 cán bộ chiến sĩ đã phải chắt chiu chia nhau từng ca nước ngọt, nhường nhau từng cọng rau xanh, nhưng không nỡ để 3 phi công thiếu thốn. Chúng tôi đã phát động phong trào tiết kiệm: “Mỗi người nhịn tắm 7 ngày dành nước ngọt cho bạn”. Thấy các bạn không ăn được cơm, Ban Chỉ huy tàu quyết định mở kho lương thực dự trữ lấy mì tôm và sữa hộp đặc cho họ; vận động cán bộ chiến sĩ nhường thuốc lá cho bạn, còn tất cả anh em hút thuốc rê, thuốc lào. Mọi nơi ăn, nghỉ của bạn được cán bộ chiến sĩ tàu HQ-11 chăm sóc chu đáo. Họ đã không còn rụt rè nữa. Có người đã khe khẽ hát, đi lại trên lan can hút thuốc”, ông Tạo kể.
Sau khi liên lạc với Hoa Kỳ theo đường ngoại giao, sáng 13/7/1988, 3 phi công gặp nạn được tàu của Hải đoàn 128 Hải quân đón về đất liền. Cuộc chia tay có một không hai diễn ra ngay trên boong tàu. Giữa bộn bề sóng nước, một bên là những vị khách quốc tế gặp nạn, một bên là ân nhân chiến sĩ Hải quân. Ai cũng xúc động chẳng nói nên lời. Những tấm ảnh chụp vội làm kỷ niệm như thay lời ghi nhớ công ơn của các chiến sĩ Hải quân Việt Nam đã cứu họ. Xúc động chen lẫn niềm vui, anh phi công Richard Kamaurer (Chỉ huy tổ lái) nói: “Xin cảm ơn bộ đội Việt Nam. Cảm ơn các bạn. Nếu không có các bạn chúng tôi đã bị đắm chìm dưới đại dương bao la này”. Còn chị Stein Necker đã bật khóc. Chị xin mảnh giấy, mượn bút viết vội lá thư như thay lời cảm ơn gửi lại tàu, bức thư có đoạn: “Cảm ơn các bạn đã cứu chúng tôi từ lòng biển cả. Lòng mến khách của các bạn thật tuyệt vời. Cảm ơn các bạn rất nhiều và chắc chắn chúng ta sẽ gặp lại nhau”.
Bức thư của người nữ phi công Mỹ viết vội ngày nào đã thành kỷ vật quý giá đặt khiêm tốn trong phòng truyền thống của Lữ đoàn 171 Hải quân. Mỗi lần nhớ đến, như nhắc lại một kỷ niệm đẹp về lòng nhân ái của những người lính Bộ đội Cụ Hồ. Được biết đứa con trai của người nữ phi công Stein Necker được sinh ra trên đất Mỹ và được chị đặt tên con là Navy Eleren (Hải Quân 11) - tên con tàu cùng những người lính Hải quân dũng cảm đầy lòng nhân ái đã cứu mẹ con chị thoát nạn giữa đại dương bao la.
32 năm hội ngộ với bao kỷ niệm ùa về một thời áo lính. Họ vẫn rưng rưng nước mắt khi hồi tưởng lại những ngày đồng đội bên nhau đồng cam cộng khổ giữa sóng nước Trường Sa. Dẫu trong gian khó hiểm nguy nhưng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ luôn tỏa sáng trong lòng nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế.