(TN&MT) - Những tờ lịch cuối cùng của năm cũ đã gầnhết, thế là thêm một mùa Xuân mới lại đến trên khắp nẻo đường, biên cương, hải đảo. “Mẹ ơi, thêm một năm nữa con không về ăn Tết, vì nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc thân yêu. Ngày thường nỗi nhớ đất liền đã canh cánh trong lòng, khi Xuân về Tết đến nỗi nhớ còn tăng lên gấp bội, song điều đó đã trở thành bình thường đối với chúng con - những người khoác trên mình màu trắng hải âu, đêm ngày khát vọng canh giữ chủ quyền của Tổ quốc”.
Niềm vui lính đón tết xa quê
Sóng ì oạp vỗ vào mạn tàu, biển hiền hòa mênh mông một màu xanh huyền hoặc. Phía mũi con tàu, người lính hải quân ngồi trầm tư, ánh mắt xa xăm dõi về hướng biển. Không muốn phá tan không gian riêng của người lính nọ, tôi tìm đường vào tàu. Những người lính trẻ ùa ra đón nồng hậu và nhiệt thành. Đó là một ngày cuối năm tôi đến Tàu 636 Lữ đoàn 125 Vùng 2 Hải quân- con tàu được mệnh danh là “cá kình” trên mọi vùng biển đảo.
Câu chuyện đầu tiên mà chúng tôi nói với nhau là đón Tết trên biển. “Tết ư? Lính biển bao giờ đón Tết cũng rất vui và khác đất liền. Tàu trực ở biển bao giờ những ngày cận Tết sóng to gió lớn, song được quây quần bên đồng đội, được canh biển, đảo Tổ quốc để nhân dân đón tết yên bình nên nỗi nhớ đất liền cũng vơi đi một nửa”, chiến sĩ Trần Văn Tuấn tàu 636 chia sẻ. “Mấy năm rồi cậu không được về quê”? “2 năm rồi. Không chỉ riêng tôi mà đa số những người lính trên tàu này đều có thâm niên ăn Tết xa nhà như thế. Nhớ nhất là cả nhà xum họp, quây quần bên nhau chờ đón giao thừa. Đón giao thừa có thêm món bánh răng bừa mẹ làm thật ngon”.
Thiếu úy chuyên nghiệp Giang Trí Nghĩa quê tận miền sông nước An Giang nhớ lại: “Quê tôi có đặc sản trái bòng boong. Tuy 3 năm chưa được ăn Tết ở nhà nhưng năm nào tôi cũng có quà của mẹ gửi lên. Đón Tết ở biển tuy sóng gió, nhưng cũng cảm thấy vui vì được canh. Tết đi trực ngoài biển dài ngày, không hoa nào chịu nổi sóng gió, chúng tôi đành làm hoa giấy để hái hoa dân chủ đêm giao thừa”.
Điều không thể thiếu trước thời khắc thiêng là anh em đồng đội quây quần bên nhau hái hoa dân chủ, tìm hiểu Tết cổ truyền của mỗi miền quê. Hương vị Tết lan tỏa trong tâm hồn người lính trẻ khi nhớ về cái Tết tuổi thơ như một cuốn phim quay chậm rõ nét dần. Tết của Nghệ An thêm “tứ nhút tương cà”, Tết của Thái Bình không thiếu hương vị bánh cáy, Tết của Thanh Hóa không thể thiếu bánh răng bừa hòa quện vào nhau. Sau kể chuyện “hương vị Tết quê tôi” là ca hát. Ai cũng phải hát dù chưa hát lần nào. Hát về quê hương đất nước, hát tặng mẹ, hát để vơi bớt nhớ nhà. Những lúc như thế, lính trẻ lại trổ tài “xuất khẩu thành thơ”.
Không quên những Anh hùng Liệt sĩ
Trong niềm vui của mùa Xuân mới, những người lính Nhà giàn DK1 lại có dịp kể lại cho nhau nghe truyền thống của đơn vị, những tháng ngày oai hùng cùng đồng đội lăn lộn với biển cả, đối mặt với gian khổ. Để mỗi Nhà giàn DK1 mãi là thế đứng Việt Nam giữa ngàn khơi Tổ quốc, các anh đã gác lại bao ước mơ hoài bão, hi sinh tuổi thanh xuân của mình để dấn thân nơi đầu sóng.
Năm 1990, Nhà giàn Phúc Tần 3 chìm vào lòng biển cuốn theo 9 cán bộ chiến sĩ xuống biển đêm. Trung úy, chính trị viên Nguyễn Hữu Quảng đã nhường mảnh áo phao và miếng lương khô cuối cùng cho đồng đội rồi để sóng cuốn đi, để lại quê nhà người vợ mới đính hôn với lời hẹn ước sau chuyến đi biển ấy về sẽ làm lễ cưới. Tháng 12/1998, trong bão tố, nhà giàn Phúc Nguyên 2A bị nhấn chìm cuốn theo 3 chiến sĩ xuống tận biển sâu. Đại úy Vũ Quang Chương hy sinh ở tuổi chớm 30 chưa kịp yêu người con gái, để lại quê nhà bố mẹ già và em gái bé bỏng Út Hồng. Liệt sĩ Nguyễn Văn An để lại người vợ trẻ tận Ninh Bình và đứa con trai 2 tháng tuổi chưa kịp đặt tên và chưa một lần nhìn thấy mặt. Liệt sĩ Lê Đức Hồng mãi mãi nằm lại lòng biển mẹ, ấp ủ những lá thư màu tím kết bạn trên báo Tiền Phong chưa kịp gửi về đất liền.
Đón Xuân tận chân trời Tổ quốc, những người lính Trường Sa lại có niềm riêng của lính đảo xa nhà. Trên đường tuần tra đầy nắng và sỏi cát, bồng súng đứng canh cột mốc chủ quyền, các anh lại nghĩ về những ngày huấn luyện lăn, lê, bò, trườn trong mưa rào nắng lửa. Đá san hô có thể làm chân toạc máu, nắng gió có thể làm áo bạc màu, vết tỳ của đá có thể làm vai hằn sâu, nhưng tình yêu biển, đảo thì không hề thay đổi. Đó là mệnh lệnh không lời, là sứ mệnh của người lính biển thời bình được Đảng giao phó, nhân dân gửi gắm niềm tin.
Hàng nghìn lần chuyển đá từ tàu vào xây đảo, hàng trăm lần cứu ngư dân gặp nạn, nhiều đêm trắng cùng đồng đội đồng cam cộng khổ chống bão, các anh nhận ra một điều, trong gian khổ mới thấy đức hi sinh, giữa ngàn khơi càng thấy yêu Tổ quốc, Trường Sa là mảnh đất thiêng liêng mà chủ quyền của nó không thể tách rời. Đó là máu thịt của dân tộc Việt Nam được kiến tạo qua hàng ngàn năm lịch sử. Ở đó, mỗi tấc đảo, mỗi ngọn sóng đều thấm máu đồng đội, đều mang khát vọng hòa bình. Để kê cao nền Tổ quốc giữa đại dương, các anh chẳng tiếc tuổi thanh xuân, nguyện dâng hiến quên mình cho Tổ quốc.
Trung úy Liệt sĩ Nguyễn Văn Phương, trước họng súng quân thù hô vang “Hãy để máu của mình nhuộm đỏ lá cờ truyền thống của quân chủng Hải quân” rồi ngã vào lòng biển. Trung úy Liệt sĩ Đinh Văn Nam ở Lữ đoàn 125 Hải quân đã dũng cảm cứu tàu tránh mắc cạn, để rồi hi sinh quên mình giữa đảo Phan Vinh B. 64 cán bộ chiến sĩ hi sinh trong trận chiến Gạc Ma năm 1988, là biểu tượng của ý chí kiên cường lòng trung thành với Đảng và Tổ quốc, với tinh thần “quyết tâm bám đảo, một tấc không đi, một ly không rời”. Máu đào của các anh đã hòa vào biển cả, xương cốt của các anh nằm tận đáy san hô, tên các anh đã tạc vào lịch sử, để thanh niên cả nước tự hào về các anh- những người lính Hải quân quên mình vì dân, vì nước.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà những người lính Hải quân được ví như những cánh chim tung trời bạt gió. Với những nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc, vận chuyển hàng ngàn tấn đá ra xây dựng đảo Trường Sa. Để có sức khỏe và nghị lực dẻo dai, họ phải thường xuyên không ngừng rèn luyện, mài sắc ý chí sắt đá “khó khăn chẳng sờn lòng, gian lao không chùn bước, còn biển còn nhà giàn, giữ Trường Sa bằng trái tim người lính”. Điều đó như một mệnh lệnh thiêng liêng khắc sâu trong tim mỗi người lính hải quân Trường Sa, Nhà giàn DK1 anh hùng.
Năm nào cũng vậy, cứ khoảng đến đầu tháng 12 âm lịch, Lữ đoàn 146 Vùng 4 hải quân và Tiểu đoàn DK1 Vùng 2 Hải quân đón nhận hàng chục tấn quà Xuân của nhân dân trên mọi miền Tổ quốc gửi tặng. Những phần quà chẳng đắt tiền nhưng chứa đựng bao nghĩa tình sâu nặng của dân đối với quân. Những tình cảm ấy như một sự hàm ơn những người lính biển Xuân này vững chắc tay súng canh biển, giữ đảo để nhân dân trọn niềm vui đón Tết. Quà được đóng gói cẩn thận trong bao ni-lon chuyển xuống tàu xếp gọn một khoang.
Chuyến tàu đầu tiên xông biển hải trình trong bạt ngàn sóng gió đến với Trường Sa, DK1. Ở Trường Sa, hàng quà được chuyển xuống tàu chuyển tải đưa vào đảo nhỏ. Ở nhà giàn DK1, hàng quà được cột chặt vào dây mồi thả xuống biển để các chiến sĩ nhà giàn kéo lên. Tàu và nhà cách nhau chừng 30 mét nhưng không bắt được tay nhau, chỉ biết gửi nỗi nhớ vào sóng gió, chúc Tết qua bộ đàm, thầm chúc cho nhau một năm mới an lành sức khỏe.
Ngay sau khi đón nhận quà Xuân từ đất liền, các chiến sĩ tổ chức gói bánh chưng, mổ heo, gói giò đón Tết sớm. Ở Trường Sa, bánh chưng được gói bằng lá bàng vuông, ở nhà giàn, lá bánh chưng đem ra từ đất liền. Trước phút giao thừa, mọi người mặc quân phục chỉnh tề quây quần bên nhau, hái hoa dân chủ, bình thơ, bình báo tường, xem không khí đất liền từ màn hình nhỏ. Trước anh linh Chủ tịch Hồ Chí Minh và các liệt sĩ đã anh dũng hi sinh vì Trường Sa và Thềm lục địa, các anh nguyện trung thành với Tổ quốc, vững vàng tay súng giữ biển, đảo yên bình. Sớm mồng một Tết, đảo trưởng, chỉ huy trưởng nhà giàn DK1 đến từng phòng nhân viên chúc Tết. Mừng tuổi là cái bắt tay, hoặc phong bì lì xì 10.000 đồng lấy thảo. Chúc cho nhau năm mới sức khỏe hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Trường Sa đón Tết, biển đảo quê hương đã vào Xuân. Mặc cho sóng gió cuồng phong, mặc cho khó khăn gian khổ, các anh vẫn bồng súng đứng gác canh biển, vẫn yêu đời thiết tha hát bài ca người lính biển. Đó là tiếng Tổ quốc vọng về từ biển cả, để mỗi lần nhắc hai tiếng Trường Sa mỗi chúng ta như thấy Tổ quốc gọi tên mình.