Chưa phát huy hiệu lực quản trị tài nguyên nước
Mặc dù, chúng ta đã có những chính sách rõ ràng, nhưng chỉ sau những đợt khủng hoảng về chất lượng nguồn nước, người ta mới giật mình nhìn lại và nhận ra rằng, sẽ là quá muộn nếu không thực thi các chính sách về quản trị tài nguyên nước một các quyết liệt và nghiêm minh.
Đánh giá của Ngân hàng Thế giới - WB cũng chỉ ra rằng, việc nâng cao hiệu quả và hoàn thiện quá trình thực thi chính sách sẽ giúp Việt Nam bảo vệ tài nguyên nước và duy trì tăng trưởng, bởi vì phần lớn phát triển của Việt Nam phụ thuộc vào nguồn nước. Để giải quyết các thách thức mới nảy sinh - như ô nhiễm, biến đổi khí hậu và cung cấp dịch vụ cho nông nghiệp và sinh hoạt - cần thực hiện cải cách chính sách một cách tổng hợp nhằm giải quyết sự thiếu hiệu quả và phân tán lợi ích.
Không những thế, công tác xây dựng các quy hoạch tài nguyên nước đang được tiến hành nhưng còn khó khăn và chậm tiến độ. Chưa hoàn thành điều tra cơ bản tài nguyên nước quốc gia. Chưa có quy hoạch tổng thể chung cho cả nước. Các Bộ, ngành và địa phương tự xây dựng quy hoạch riêng, dẫn đến nguy cơ phân tán và thiếu đồng bộ.
|
Khung quản trị nước của Việt Nam có mục đích lồng ghép quy hoạch và quản lý ở cấp lưu vực song thành công trong việc thành lập các tổ chức lưu vực sông và đảm bảo quy hoạch lưu vực còn hạn chế. Cần tăng cường trao quyền cho các tổ chức này, phân bổ đủ nguồn lực và đảm bảo các tổ chức này đại diện đầy đủ quyền lợi của các bên liên quan.
Thêm nữa, nguồn tài chính cho quản lý tài nguyên nước còn thiếu, phí và lệ phí liên quan đến tài nguyên nước chưa đủ để bù đắp các chi phí hoặc chưa đủ để thay đổi hành vi. Các cơ chế khuyến khích bảo tồn và bảo vệ tài nguyên nước đã được pháp luật quy định, nhưng chưa có đánh giá về tính hiệu quả của các cơ chế này.
Việc giám sát tuân thủ pháp luật trong ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm còn thấp, gây tác động tiêu cực đến các nguồn nước. Vụ việc ô nhiễm nguồn nước cung cấp cho nhà máy nước sạch sông Đà vừa qua là một minh chứng.
Các cơ chế giải quyết vấn đề nước xuyên biên giới đã tạo những lợi ích cụ thể, song còn thách thức. Vì Việt Nam phụ thuộc nhiều vào các nguồn nước xuyên biên giới, cần thực hiện cơ chế đàm phán với các con sông khác.
Mặc dù, Việt Nam đã bắt đầu xây dựng hệ thống thông tin để lập quy hoạch và quản lý song còn thiếu dữ liệu và đặc biệt là bất cập trong chia sẻ thông tin. Bởi vậy, các chuyên gia của WB đã khuyến nghị, cần hoàn thiện đầu tư vào thu thập cơ sở dữ liệu và chuyển dữ liệu thành thông tin.
Dự báo nhiều thách thức trở nên nghiêm trọng
Đánh giá của WB trong một báo cáo mới đây cho thấy, Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến tài nguyên nước, tất cả các thách thức này dự đoán sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nếu không có bất kỳ hành động nào được đưa ra (kịch bản thông thường trong điều kiện có các dự báo về xu hướng biến đổi khí hậu).
Trước hết, 4 lưu vực sông của Việt Nam: lưu vực sông Hồng - Thái Bình, sông Cửu Long, Đồng Nai và Đông Nam Bộ vốn đóng góp 80% GDP đến năm 2030 đều phải đối mặt với căng thẳng về tài nguyên nước vào mùa khô. Lưu vực sông Đông Nam Bộ dự kiến sẽ đối mặt với căng thẳng tài nguyên nước nghiêm trọng, thậm chí, không đạt được mức 28% nhu cầu dùng nước mùa khô tới năm 2030.
Khai thác quá mức và thiếu quan trắc đầy đủ tài nguyên nước dưới đất làm suy giảm mực nước dưới đất, là một trong những nguyên nhân dẫn đến sụt lún đất ở TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và TP. Đà Nẵng cũng như thiếu nước cục bộ vào mùa khô, ví dụ như vùng ĐBSCL (nơi sản xuất 50% lúa gạo cho Việt Nam) và ở vùng Tây Nguyên (nơi có 88% diện tích cà phê so với toàn quốc). Xâm nhập mặn vào các tầng nước dưới đất làm giảm sản lượng nông nghiệp dọc các sông ở vùng ĐBSCL và sông Hồng.
Nước mặt có nguy cơ bị ô nhiễm nghiêm trọng với chỉ với khoảng trên 10% nước thải đô thị và công nghiệp được xử lý. Một số đoạn sông gần các thành phố lớn bị ô nhiễm nặng, dẫn đến phụ thuộc nhiều hơn vào tài nguyên nước dưới đất và nguy cơ khai thác quá mức nguồn nước này. Nước thải không được xử lý được sử dụng cho thủy lợi ở vùng hạ du dẫn đến tiềm ẩn nguy cơ cho sức khỏe cộng đồng. Hạ tầng cấp nước máy và vệ sinh cũng như các dịch vụ tương ứng mới chỉ bao phủ được một bộ phận của người dân.
Thủy điện được mở rộng một cách nhanh chóng dẫn đến các vấn đề về an toàn về hồ đập, đặc biệt là các đập nhỏ, có tiềm năng làm gia tăng căng thẳng về tài nguyên nước vào mùa khô và các mâu thuẫn về chia sẻ tài nguyên nước. Hơn nữa, thủy điện cũng làm giảm lượng phù sa trong sông làm ảnh hưởng đến năng suất nông nghiệp.
Các đợt hạn hán ngày càng gia tăng về tần suất lẫn cường độ, ảnh hưởng sinh kế và sản lượng nông nghiệp. Đợt El Nino năm 2014 và 2016 gây nên hạn hán nghiêm trọng mà Việt Nam phải đối mặt trong vòng 90 năm qua ảnh hưởng nặng nề đến sinh kế và nền kinh tế.
Đánh giá gần đây về nguy cơ lũ (Phân tích biến đổi khí hậu của lũ, Ngân hàng Thế giới 2018) cho thấy, lưu lượng đỉnh lũ lịch sử vốn xuất hiện một lần trong 5 thế kỷ được dự kiến đến năm 2026 - 2045 sẽ quay lại trên một nửa đất nước chỉ trong vòng 20 năm hoặc thậm chí ngắn hơn.
Những thách thức kể trên, theo WB, dự kiến sẽ làm giảm 6% GDP hàng năm vào năm 2035. Đây là con số theo phương án ước tính thấp, vì vậy, tác động thực tế đến GDP sẽ có thể vượt quá 6% hàng năm.
Do đó, phải có các hành động kiên quyết là hết sức thiết yếu cho sự phát triển bền vững kinh tế xã hội Việt Nam, đặc biệt các giải pháp quản lý cơ sở hạ tầng và nhu cầu để ngăn chặn cuộc khủng hoảng nước sắp diễn ra. Các hành động này có thể thực hiện được trong ngắn hạn và khả thi.