Ông Phạm Văn Cường, Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Quảng Ninh |
PV: Xin ông cho biết những giải pháp mà tỉnh đã triển khai và kết quả đạt được trong phát triển kinh tế biển xanh bền vững?
Ông Phạm Văn Cường:
Là tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, thuộc tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có chiều dài bờ biển trên 250 km, với diện tích biển khoảng 6.100 km2, 2.700 hòn đảo lớn nhỏ, cùng 40.000 ha bãi triều, có Vịnh Hạ Long - Di sản thiên nhiên thế giới, kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới. Đây là những điều kiện thuận lợi để Quảng Ninh phát triển kinh tế biển xanh theo hướng bền vững.
Những năm qua, Quảng Ninh đã triển khai đồng bộ các giải pháp về phát triển kinh tế biển xanh bền vững với mục tiêu: Phát triển kinh tế nhanh, bền vững; chuyển dịch và tăng tốc độ phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp “xanh”; kiểm soát ô nhiễm môi trường và nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu.
Nhờ có những cơ chế, chính sách, giải pháp hiệu quả, tỉnh đã đạt được một số kết quả nổi bật trong phát triển các ngành kinh tế biển, nhất là trong giai đoạn 5 năm (2016 - 2020). Tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao bình quân 5 năm tăng 10,7%; đến năm 2020 quy mô nền kinh tế đạt 211.476 tỷ đồng, tăng gấp 1,86 lần so với năm 2015.
Cụ thể, tổng số khách du lịch 5 năm ước đạt 53 triệu lượt, tăng bình quân 1,7%/năm; khách nội địa tăng bình quân 9,5%/năm; doanh thu du lịch tăng bình quân 11,9%/năm. Tổng doanh thu dịch vụ cảng biển năm 2020 đạt 24.547 tỷ đồng, tăng 11,5% so với năm 2019.
Cùng với đó, ngành thủy sản đã chuyển đổi cơ cấu đúng hướng, cụ thể, tăng nuôi trồng, giảm khai thác thủy sản; tăng khai thác xa bờ, giảm khai thác gần bờ; tập trung tăng nuôi công nghiệp, thâm canh, siêu thâm canh, nuôi công nghệ cao và giảm nuôi tự nhiên, quảng canh. Sản lượng thủy sản tăng từ 107.800 tấn năm 2016 tăng lên 144.479 tấn năm 2020, bình quân tăng 5,32%.
Không gian phát triển du lịch được mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm. Thu hút được nhiều nhà đầu tư chiến lược có uy tín, thương hiệu đầu tư vào lĩnh vực du lịch, dịch vụ, như Sungroup, Vingrroup, FLC. Hạ tầng du lịch có bước phát triển đột phá, ngày càng đồng bộ, hiện đại, như: Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, Cảng tàu khách quốc tế Hòn Gai, khu nghỉ dưỡng cao cấp suối khoáng nóng Quang Hanh.
Kinh tế cảng biển đang trở thành ngành mũi nhọn trong cơ cấu phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ninh |
PV: Nghị quyết 36-NQ/TW có vai trò như thế nào trong việc đưa tỉnh Quảng Ninh hướng đến những mục tiêu phát triển kinh tế biển xanh, thưa ông?
Ông Phạm Văn Cường:
Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã trở thành “kim chỉ nam”, xuyên suốt và là xu hướng phát triển tất yếu trong tương lai của nền kinh tế Việt Nam nói chung, tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
Trong đó, Quảng Ninh xác định, phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học các hệ sinh thái biển, bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Đồng thời, đẩy mạnh đầu tư vào bảo tồn và phát triển giá trị đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái biển, bảo vệ tính toàn vẹn của hệ sinh thái từ đất liền ra biển. Gắn bảo vệ môi trường biển với phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm, sự cố môi trường, tăng cường hợp tác khu vực và toàn cầu.
Như vậy, Nghị quyết số 36-NQ/TW có vai trò thúc đẩy nhanh hơn nữa việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh” đã được tỉnh Quảng Ninh kiên trì thực hiện, góp phần định hướng mở rộng không gian phát triển, thúc đẩy hội nhập sâu rộng kinh tế Quảng Ninh với kinh tế khu vực và thế giới trong bối cảnh thập kỷ 2021 - 2030 được Liên Hợp Quốc chọn là “Thập kỷ của Liên Hợp Quốc về khoa học biển vì sự phát triển bền vững”.
PV: Xin ông cho biết những giải pháp mà tỉnh Quảng Ninh sẽ triển khai trong thời gian tới để hướng tới việc phát triển kinh tế biển xanh theo hướng bền vững?
Ông Phạm Văn Cường:
Thời gian tới, tỉnh Quảng Ninh tập trung triển khai các giải pháp trọng tâm để hướng tới việc phát triển kinh tế biển xanh theo hướng bền vững. Cụ thể, tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các cấp chính quyền, người dân và doanh nghiệp về biển, về sự cần thiết phải khai thác bền vững tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, góp phần tham gia phát triển kinh tế biển xanh.
Đồng thời, xây dựng và triển khai pháp luật về biển và hải đảo, các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển kinh tế biển xanh, quản trị biển và đại dương.
Tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế biển xanh bằng cách huy động mọi nguồn lực, đa dạng hình thức đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại.
Xây dựng, triển khai có hiệu quả Đề án “Bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030”.
Thành lập và tăng cường hoạt động của các khu bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, các khu vực bảo vệ nguồn nước như: Khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần, khu rừng đặc dụng bảo vệ cảnh quan Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc gia Bái Tử Long, khu bảo tồn Vịnh Hạ Long, khu bảo tồn đất ngập nước Đồng Rui - Tiên Yên, khu bảo tồn Đồng Sơn - Kỳ Thượng, rừng phòng hộ Yên Lập, hồ Cao Vân...
Cùng với đó, bảo đảm cho người dân sinh sống và làm việc ở vùng biển, hải đảo được sử dụng hạ tầng kinh tế - xã hội như điện, nước ngọt, dịch vụ y tế, thông tin và truyền thông có chất lượng, nhằm nâng cao sức khỏe, đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!