Tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp có những quyền gì?

Đất đai - Ngày đăng : 18:11, 01/06/2021

(TN&MT) - Người dân thành lập doanh nghiệp để thực hiện các dự án sản xuất nông nghiệp thì không bị hạn chế về hạn mức. Đây là khẳng định của Vụ Pháp chế (Bộ TN&MT)

Trước ý kiến của cử tri tỉnh Lào Cai đề nghị các cơ quan chức năng sửa đổi Luật Đất đai theo hướng bãi bỏ quy định tại khoản 3, Điều 191 của Luật Đất đai năm 2013: "Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa”. Nếu vẫn thực hiện theo quy định này thì có những hạn chế nhất định trong việc thu hút đầu tư để phát triển nền kinh tế nông nghiệp của địa phương ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của những người không trực tiếp sản xuất nông nghiệp có điều kiện để nhận chuyển nhượng, nhận tặng, cho đất trồng lúa.

Quy định hiện hành cho phép người sử dụng đất đầu tư vào nông nghiệp

Trả lời về vấn đề này, Vụ Pháp chế, Bộ TN&MT cho biết, pháp luật đất đai hiện nay vẫn có các quy định cho phép người sử dụng đất đầu tư vào nông nghiệp, cụ thể đối với trường hợp người dân thành lập doanh nghiệp để thực hiện các dự án sản xuất nông nghiệp thì không bị hạn chế về hạn mức, cử tri có thể tham khảo quy định tại Điều 43b của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai (được bổ sung theo quy định tại khoản 29 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017) để thực hiện.

Cụ thể khoản 29 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP quy định như sau: “Việc sử dụng đất của tổ chức kinh tế do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm của hộ gia đình, cá nhân để thực hiện dự án đầu tư được quy định như sau:

Tổ chức kinh tế sử dụng đất do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp không phải là đất thuê của hộ gia đình, cá nhân, trừ đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng để thực hiện dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp và không chuyển mục đích sử dụng đất thì được tiếp tục sử dụng đất và không phải chuyển sang thuê đất; thời hạn sử dụng đất được xác định theo thời hạn của dự án đầu tư quy định tại khoản 3 Điều 126 của Luật đất đai.

Trường hợp tổ chức kinh tế xin phép chuyển mục đích sử dụng đất sang loại đất khác trong nhóm đất nông nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 57 của Luật đất đai thì phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật, không phải chuyển sang thuê đất; thời hạn sử dụng đất được xác định theo thời hạn của dự án đầu tư quy định tại khoản 3 Điều 126 của Luật đất đai.

Tổ chức kinh tế sử dụng đất do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân mà đất đó do hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước cho thuê thu tiền một lần cho cả thời gian thuê, trừ đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng để thực hiện dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp thì tổ chức kinh tế được tiếp tục sử dụng đất theo hình thức thuê đất; thời hạn sử dụng đất được xác định theo thời hạn của dự án đầu tư quy định tại khoản 3 Điều 126 của Luật đất đai.

Trường hợp tổ chức kinh tế xin phép chuyển mục đích sử dụng đất sang loại đất khác trong nhóm đất nông nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 57 của Luật đất đai thì được tiếp tục sử dụng đất theo hình thức thuê đất, phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; thời hạn sử dụng đất được xác định theo thời hạn của dự án đầu tư quy định tại khoản 3 Điều 126 của Luật đất đai.

Đối với các trường hợp quy định như trên, khi hết thời hạn sử dụng đất, nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét gia hạn sử dụng đất và phải chuyển sang thuê đất theo quy định của pháp luật. Trình tự, thủ tục nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và chuyển mục đích sử dụng đất thực hiện theo quy định tại Điều 69 và Điều 79 của Nghị định này.

Tổ chức kinh tế sử dụng đất do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân để chuyển mục đích sử dụng sang thực hiện dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp thì phải chuyển sang thuê đất và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật. Thời hạn thuê đất được xác định theo thời hạn của dự án đầu tư quy định tại khoản 3 Điều 126 của Luật đất đai”.

 Liên quan đến vấn đề sửa đổi khoản 3 Điều 191 của Luật Đất đai năm 2013, hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1188/QĐ-TTg ngày 04 tháng 8 năm 2020 về việc thành lập Ban chỉ đạo tổng kết thi hành Luật Đất đai năm 2013 và xây dựng Dự án Luật Đất đai (sửa đổi). Do đó, vấn đề cử tri nêu sẽ được xem xét trong quá trình sửa đổi Luật Đất đai năm 2013.

Báo TN&MT