Kịch bản mới cho việc giảm nguồn than nhập khẩu
Tư vấn pháp luật - Ngày đăng : 20:47, 18/11/2019
Thực tế cho thấy, tiêu thụ điện than đang tăng nhanh chóng ở Việt Nam và sẽ tăng gấp đôi trong giai đoạn 2020 – 2030. Việt Nam đã nhập khẩu thuần than từ năm 2015 và nguồn than nhập khẩu ngày càng tăng do nhu cầu tăng trưởng của ngành sản xuất năng lượng. Trong mấy năm gần đây, than lọt vào nhóm hàng nhập khẩu lớn của Việt Nam. Nếu năm 2016, kim ngạch nhập khẩu than là 927 triệu USD, thì năm 2017 đã tăng lên 1,52 tỷ USD và 2018 vượt 2,25 tỷ USD. Nhập khẩu than năm 2019 tính đến thời điểm này đã vượt mốc 3 tỷ USD.
Theo Quy hoạch Phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 – 2020, có xét đến năm 2030 (Quy hoạch Phát triển điện VII), tổng công suất lắp đặt của hệ thống năm 2030 khoảng 129.500 MW. Trong đó, thủy điện chiếm gần 16,9%, nhiệt điện than 42,6%, nhiệt điện khí khoảng 14,7%, tỷ lệ của thủy điện nhỏ và năng lượng khoảng 21%, nhập khẩu điện khoảng 1,2%.
Giảm phụ thuộc vào nguồn than nhập khẩu, nếu dừng đầu tư thêm các nhà máy nhiệt điện than |
Việt Nam hiện có 28 nhà máy nhiệt điện than đang vận hành, với tổng công suất khoảng 18.000 MW, chiếm 39% trong cơ cấu nguồn điện. Trong năm 2018, lượng tro, xỉ, phát sinh từ các nhà máy điện than khoảng 13 triệu tấn, nhưng tro xỉ tiêu thụ chỉ đạt khoảng 5,4 triệu tấn, chiếm 41% lượng phát thải.
Ông Jakon Stenby Lundsager, cố vấn dài hạn Chương trình hợp tác Đối tác năng lượng Việt Nam – Đan Mạch cho rằng, Việt Nam nên sớm dừng đầu tư các nhà máy nhiệt điện than, bởi như vậy mới có thể giúp Việt Nam tránh được hiệu ứng phụ thuộc nhiều vào nhiệt điện than, dẫn đến phụ thuộc vào than nhập khẩu.
Báo cáo Triển vọng Năng lượng Việt Nam 2019 đã đưa ra một kịch bản không đầu tư vào nhiệt điện than mới sau năm 2025. Kịch bản này chứng minh rằng, có thể giảm 42 triệu tấn than trong tổng tiêu thụ than vào năm 2030 và 221 triệu tấn vào năm 2050.
Ngoài ra, việc phát thải từ nhiệt điện than cũng gây ra chi phí y tế lớn do tác động từ ô nhiễm. Với kịch bản không có nhà máy điện than mới giúp giảm 39% phát thải CO2 và giảm chi phí 20 tỉ USD.
Việc giảm tiêu thụ than chỉ đòi hỏi tăng khoảng 2% tổng chi phí của hệ thống năng lượng vào năm 2030 và 5% vào năm 2050, nhưng lợi ích mang lại là giảm đáng kể phát thải CO2, giảm ô nhiễm không khí và giảm phụ thuộc vào nhập khẩu than.
Báo cáo này cũng cho thấy, sự phụ thuộc vào nhập khẩu nhiên liệu trong tương lai có thể giảm từ 60% xuống 51% vào năm 2030 và từ 71% xuống 58% vào năm 2050, nếu đồng thời phát triển năng lượng tái tạo, sử dụng khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) và các biện pháp tiết kiệm năng lượng nhằm thay thế hầu hết các nhà máy nhiệt điện than.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Bộ Công Thương, vẫn phải phát triển các nguồn điện than để đảm bảo cung cấp đủ điện cho phát triển, để giá điện phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và thu nhập của người dân.
Bộ Công Thương cho rằng, các dự án thủy điện lớn và vừa trên các dòng sông đã được quy hoạch, về cơ bản đã được đầu tư và khai thác hết. Trong khi đó, điện gió và điện mặt trời chỉ tập trung ở một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên, không đảm bảo ổn định cấp điện, do phụ thuộc vào điều kiện thời tiết. Thêm vào đó, giá điện năng lượng tái tạo như hiện nay (điện mặt trời khoảng 2.100 đồng/kWh và điện gió 1.900 – 2.200 đồng/kWh) khá cao. Dự kiến trong giai đoạn tới, mỗi năm, hệ thống cần bổ sung 8.000 – 10.000 MW, thì nhiệt điện than cần bổ sung 3.200 – 4.500 MW”.
Bộ Công Thương cũng thừa nhận, kịch bản nhập khẩu than với khối lượng lớn để phục vụ sản xuất điện trong thời gian tới được nhận định là gặp nhiều khó khăn và thách thức trước sự cạnh trạnh rất lớn của các nước nhập khẩu than với khối lượng lớn trên thế giới như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ…