Công nghiệp Lọc - Hóa dầu: Hẹp cơ hội, tăng thách thức
Kinh tế - Ngày đăng : 10:06, 16/10/2018
Theo nghiên cứu của Viện Dầu khí Việt Nam, cơ hội phát triển ngành công nghiệp hóa dầu ở Việt Nam là rất lớn. Có thể kể đến hóa dầu Nghi Sơn (chỉ tính riêng hóa dầu) có công suất 2,35 triệu tấn/năm; Nhà máy NH3 và dẫn xuất ở Quảng Trị công suất 600 nghìn tấn/năm lấy nguyên liệu là mỏ khí Báo Vàng; Tổ hợp hóa dầu Cá Voi Xanh ở Quảng Nam và Quảng Ngãi; một số nhà máy NH3, tách Ethane, Nhà máy Melamin ở Vũng Tàu và Cà Mau.
Viện Dầu khí chỉ ra rằng: Ngành hóa dầu cần tập trung phát triển lĩnh vực hóa dầu (đặc biệt hóa dầu từ dầu thô/ hóa dầu từ khí thiên nhiên và HVA), ưu tiên tích hợp với các nhà máy hiện hữu để tận dụng thế mạnh về cơ sở hạ tầng sẵn có, nguồn nguyên liệu từ các sản phẩm của NMLD/ LHLHD hiện hữu,... PVN và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tiềm năng sản xuất các sản phẩm hóa dầu nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước của các ngành chế tạo ô tô, xây dựng và điện - điện tử.
Ông Nguyễn Văn Hội, Phó Tổng giám đốc Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) báo cáo tham luận tại hội thảo với nhiều thông tin giá trị. 9 tháng qua, NMLD Dung Quất đã sản xuất đạt sản lượng đạt 5,3 triệu tấn; doanh thu 83.807 tỉ đồng; nộp NSNN khoảng 9.265 tỉ đồng. Tính từ tháng 2/2009 đến nay, NMLD Dung Quất đã sản xuất 55,6 triệu tấn sản phẩm, đạt doanh thu khoảng 964,98 nghìn tỉ đồng (tương đương hơn 40 tỉ USD); nộp ngân sách khoảng 154,78 nghìn tỉ đồng (tương đương 7 tỉ USD). Năm 2018, Nhà máy hoạt động ổn định, công suất tối ưu (bình quân 107% so với công suất kế hoạch là 100%). 9 tháng, giá trị thực hiện tiết kiệm ước thực hiện 712,39 tỷ đồng, vượt 47,6% so với chỉ tiêu năm 2018 đặt ra (482,64 tỷ), trong đó phần giảm tiêu hao trong chế biến, tối ưu hóa năng lượng khoảng 707,05 tỷ đồng.
Có thể nhận thấy, thách thức đối với NMLD Dung Quất thời gian ngắn, trung hạn và dài hạn là rất lớn. Đầu tiên là nguồn dầu thô ngọt trong nước đang suy giảm dần về sản lượng và chất lượng. Ngoài ra, NMLD Nghi Sơn nhận được nhiều ưu đãi về cơ chế chính sách nên thị trường tiêu thụ sản phẩm là thách thức dài hạn với BSR. Cơ chế chính sách cũng có nhiều bất cập khiến BSR và các doanh nghiệp khâu sau của ngành Dầu khí khó phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, yêu cầu ngày càng khắt khe về tiêu chuẩn môi trường đòi hỏi phải nâng cấp chất lượng sản phẩm của NMLD Dung Quất từ EURO 2 lên EURO 5 theo lộ trình của Chính phủ. Dự án NCMR NMLD Dung Quất đang được triển khai tích cực; tuy nhiên dự án không được Chính phủ bảo lãnh vay vốn dẫn đến rất khó khăn trong công tác thu xếp vốn. Báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án chậm phê duyệt do một số nội dung liên quan môi trường biển đang trình các bộ ngành xem xét lại; gây ảnh hưởng lớn đến tiến độ của dự án, đặc biệt là công tác đấu thầu gói thầu EPC.
Thách thức là thế nhưng BSR cũng nhìn nhận ra cơ hội để phát triển. Đầu tiên là thị trường sản phẩm hóa dầu tiềm năng, cấu hình NMLD Dung Quất mở, có thể đa dạng hóa sản phẩm, phát triển các sản phẩm hóa dầu. Sau gần 10 năm vận hành NMLD Dung Quất, đội ngũ nhân sự vận hành, bảo dưỡng của BSR đã trưởng thành, nhiều người có đẳng cấp chuyên gia lọc dầu nên có thể “xuất khẩu chất xám” cho các nhà máy lọc hóa dầu trong và ngoài nước. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra cơ hội để BSR hoàn thiện hệ thống quản trị nội bộ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tham luận tại hội thảo, ông Bùi Minh Tiến - Chủ tịch HĐQT Công ty Phân bón Dầu khí Cà Mau cho biết: Đạm Cà Mau là đơn vị đầu tiên sản xuất thành công loại urê hạt đục tại Việt Nam, là một trong những doanh nghiệp dẫn đầu thị trường phân bón hiện nay, chiếm hơn 30% thị phần phân bón trong nước.
Sau 7 năm hoạt động, Đạm Cà Mau đã cung cấp trên 5 triệu tấn phân đạm cho nền nông nghiệp nước nhà và hàng trăm nghìn tấn phân bón chuyên dụng khác đảm bảo cung ứng nguồn phân bón chất lượng, đều đặn cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Đạm Cà Mau cung ứng nguồn phân bón chất lượng với giá thành hợp lý, kịp thời vụ, được bà con tin dùng, không để xảy ra tình trạng sốt phân, sốt giá mỗi khi cao điểm.
Tuy nhiên, Đạm Cà Mau cũng phải đối mặt với vô vàn thách thức như: Cạnh tranh về giá với phân bón nhập khẩu do các nhà máy nước ngoài có sẵn nguyên liệu khí, được trợ giá khí, thời gian các nhà máy của họ đi vào hoạt động đã lâu nên mức khấu hao thấp. Công tác quản lý thị trường phân bón thiếu đồng bộ và chồng chéo dẫn đến tồn tại tình trạng phân bón giả, kém chất lượng, ảnh hưởng đến nhà sản xuất phân bón có thương hiệu trong nước.
Nhà máy Đạm Cà Mau được thiết kế sử dụng nguồn cấp khí duy nhất từ mỏ PM3-CAA & 46 CN và giá khí 46% FO. Sau năm 2018, nguồn cung khí suy giảm, Đạm Cà Mau không đủ lượng khí đầu vào để vận hành 100% công suất. Bên cạnh đó, Nhà máy Đạm Cà Mau còn khấu hao khoảng 1.200 tỷ đồng/năm; Nợ gốc và lãi vay bình quân trên 900 tỷ đồng/năm – là những thách thức về tài chính đang cần được hóa giải của Đạm Cà Mau.
Về chính sách, ông Bùi Minh Tiến cho biết: Chính sách hỗ trợ giá khí của Chính phủ đảm bảo hiệu quả kinh tế của Nhà máy đạm Cà Mau chỉ kéo dài đến hết năm 2018 (giá khí chiếm 43% giá thành). Trong khi phương án giá khí Chính phủ đang xem xét cao hơn, ảnh hưởng đến hiệu quả nhà máy
Do đó, Đạm Cà Mau kiến nghị Chính phủ cần có những quyết sách đúng đắn về nguồn khí và giá khí đầu vào cho Đạm Cà Mau để nhà máy duy trì sản xuất, hỗ trợ người dân được tiếp cận với việc sử dụng sản phẩm chất lượng, giá cả phải chăng để đảm bảo canh tác có lãi và góp phần ổn định thị trường phân bón, giảm nhập khẩu.
Ông Hồ Sĩ Thoảng, nguyên Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Dầu khí Việt Nam nhấn mạnh: Phát triển lọc dầu và hóa dầu là đúng với nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, tỷ lệ chưa cân đối, cần đẩy mạnh hóa dầu. Theo quan điểm của ông Thoảng, những năm tới, không nên làm bất cứ dự án lọc dầu nào nữa. Tập trung vào nâng cấp, mở rộng NMLD Dung Quất để dự án này đã hiệu quả càng hiệu quả hơn.
Theo ông Hoàng Xuân Hùng, nguyên Phó Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, có 5 vấn đề lớn cần xử lý của lĩnh vực lọc hóa dầu, đó là: 1. Vấn đề tiêu thụ sản phẩm (đặc biệt dự án Nghi Sơn). Đối với Dung Quất đó là lộ trình hội nhập của Việt Nam trong các hiệp định khu vực nên tiêu thụ sản phẩm dự báo sẽ khó khăn; 2. Bảo lãnh để vay vốn triển khai các dự án mà Nhà nước chiếm phần chi phối; 3. Các thách thức về thuế; 4. Nguyên liệu cho lọc – hóa dầu, đặc biệt là khí cho các nhà máy đạm; 5. Chính sách đặc thù cho PVN và ngành Dầu khí của Chính phủ.
Ông Bỳ Văn Tứ, một bậc trưởng lão trong ngành Dầu khí thẳng thắn: Chính sách cho phát triển hóa dầu là không rõ ràng và không nhất quán. Chúng ta đều nhận thấy rằng, thời gian tới, khâu hóa dầu sẽ bị thoái vốn, vai trò Việt Nam sẽ là thứ yếu trong các liên doanh mà dự án Long Sơn là một điển hình. “Chúng ta cứ mơ tưởng dự án này dựa án kia. Nhưng chính sách của Nhà nước thực sự phát triển hóa dầu không?. Bên cạnh đó, nguồn vốn cấp cho các doanh nghiệp là ít, thậm chí không có. Ngược lại, tận thu bằng thuế đã diễn ra và đang có xu hướng lặp lại” - ông Bỳ Văn Tứ phân tích.
Ông cũng nhìn nhận: Bất cứ dự án công nghiệp nào, cụ thể là dầu khí, khi Việt Nam tham gia thì trì trệ, nhưng phía Việt Nam rút vốn là triển khai ào ào. Hóa dầu sắp tới chỉ có nước ngoài hoặc tư nhân mới làm nhanh và hiệu quả. Hóa dầu đang gặp khó khăn do chúng ta không gắn với các ngành công nghiệp cần nguyên liệu là hóa dầu. Việc thì cần, tiền thì có, nhưng người làm rất ít (tức không đủ cơ chế để làm, không đủ tính thuyết phục để vay tiền mà làm nên ít người dám làm, dám quyết…). Theo ông, điều kiện quan trọng nhất là Chính phủ cần tháo gỡ cơ chế để giải ngân các dòng tiền sao cho nhanh, đúng luật để doanh nghiệp yên tâm làm việc.