Giám sát ảnh hưởng BĐKH bằng công nghệ viễn thám

Môi trường - Ngày đăng : 00:00, 02/11/2017

(TN&MT) - Việc dự đoán xu thế BĐKH với các kịch bản khác nhau rất quan trọng trong việc chủ động ứng phó và xây dựng các mô hình thích ứng.

Các nhà khoa học thuộc Trung tâm Vệ tinh Quốc gia và Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã nghiên cứu đề xuất sử dụng một số dữ liệu viễn thám như GSMap và MODIS trong giám sát diễn biến BĐKH đến khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (SCL). Đây là kết quả đề tài nhánh nằm trong khuôn khổ đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu xây dựng mô hình phát triển kinh tế ứng phó với xâm nhập mặn ở vùng Đồng bằng SCL; thí điểm tại một huyện điển hình, mã số BĐKH.05/16-20”.

Giám sát diễn biến BĐKH đến khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
Giám sát diễn biến BĐKH đến khu vực Đồng bằng sông Cửu Long

Nhận thức được sự tác động nghiêm trọng của BĐKH đối với khu vực nhạy cảm Đồng bằng SCL, những năm gần đây, đã có rất nhiều các nghiên cứu cho khu vực này tập trung vào việc xây dựng các mô hình để dự báo các xu thế của BĐKH và hệ quả của nó như: Lượng mưa, tần suất lũ, hạn hán, xâm nhập mặn, nước biển dâng… theo các kịch bản phát thải khác nhau. Tuy vậy, cần phải hiểu rằng, các kịch bản BĐKH dựa trên kết quả của nhiều mô hình động lực và mô hình thống kê và các kịch bản về phát thải, do vậy, sẽ có những sai số nhất định.

Để có thể hiểu được mức độ sai số, cần phải có những đánh giá cụ thể, dựa trên những quan sát diễn biến thực của các hiện tượng cũng như những tác động của nó. Trong bối cảnh mạng lưới đo đạc, quan trắc tại Việt Nam cũng như khu vực sông Cửu Long nói chung còn hạn chế, những thông tin thu thập để theo dõi và đánh giá diễn biến BĐKH cũng như tác động của nó sẽ không toàn diện và kịp thời.

Trong khi đó, hệ thống vệ tinh quan sát Trái đất trong những thập kỷ gần đây đã chứng tỏ những ưu thế vượt trội của độ bao phủ và độ phân giải không gian và thời gian, cung cấp những thông tin hữu ích một cách đồng nhất để giám sát, nghiên cứu khí quyển Trái đất, đặc biệt, theo dõi và nghiên cứu BĐKH ở quy mô toàn cầu cũng như khu vực. Qua quan trắc vệ tinh cho thấy, nhiệt độ và lượng mưa là hai yếu tố cơ bản nhất để mô tả điều kiện khí hậu của một khu vực. Trong điều kiện BĐKH toàn cầu với những biểu hiện tăng nhanh nền nhiệt độ (trung bình tăng khoảng 0,12oC một thập kỷ) tại Việt Nam cũng ghi nhận những biểu hiện bất thường của mưa và nhiệt độ trên phạm vi cả nước.

Theo kịch bản cập nhật mới nhất năm 2016 của Bộ TN&MT, số liệu quan trắc mặt đất của các trạm khí tượng cho thấy trung bình cả nước điệt độ thời kỳ 1958 – 2014, tăng khoảng 0,62oC, riêng giai đoạn 1985 - 2014, nhiệt độ tăng khoảng 0,4oC, tốc độ tăng mỗi thập kỷ khoảng 0,1oC. Quan trọng hơn, qua giám sát bằng hình ảnh viễn thám cho thấy, những diễn biến bất thường của thời tiết và các hiện tượng cực đoan như: Bão có xu hướng mạnh lên, hạn hán xuất hiện thường xuyên hơn trong mùa khô, mưa cực đoan tăng giảm khác nhau ở phía Bắc và phía Nam, làm cho việc dự báo càng có nhiều sai số, dẫn đến nhiều thách thức trong công tác lập kế hoạch sản xuất và ứng phó thiên tai.

Với số liệu mưa vệ tinh GSMaP đồng nhất trong vòng 16 năm gần đây, các nhà khoa học phân tích mùa mưa ở vùng khí hậu Nam Bộ kéo dài từ tháng 5 - 11, trung bình có khoảng 4 - 4,5 ngày đạt ngưỡng mua to. Vùng mưa lớn thường tập trung ở phía Tây Nam, khu vực Cà Mau, Kiên Giang và một phần Bạc Liêu; khu vực An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vình Long thường có lượng mưa thấp nhất ngoại trừ năm 2005.

Ngược lại với mùa mưa, tổng lượng mưa mùa khô sẽ được tích hợp từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau và được diễn biến bất thường. Như năm 2015 là năm có lượng mưa mùa khô rất thấp, giảm khoảng 80% so với cùng kỳ năm 2010, tương ứng với sự ghi nhận của gia tăng hạn hán ở nhiều vùng thuộc khu vực, ảnh hưởng tiêu cực đến nông nghiệp.

Nhiễm mặn là một hiện tượng biến động, có thể thay đổi nhanh chóng so những biến động về mưa, độ ẩm và bốc hơi, dẫn đến những hậu quả về suy thoái đất và suy giảm năng suất cây trồng. Với các hình ảnh từ Landsat cho khu vực ven biển cho thấy, sự thay đổi rõ rệt của nhiễm mặn ở các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng. Các tính toán theo 5 ngưỡng giá trị từ thấp đến cao cho riêng từng tỉnh khẳng định chỉ số nhiễm mặn khá cao, vượt ngưỡng 7,8 độ mặn, tăng mạnh ở năm 2016 so với năm 2015. Kết quả từ hình ảnh vệ tinh cũng trùng khớp với các chỉ số dự báo nhiễm mặn được các trạm mặt đất quan trắc và cảnh báo.

Trong bối cảnh BĐKH, nắm được những dự báo theo BĐKH là một nhiệm vụ hết sức quan trọng để chủ động thích ứng, nhưng đồng thời, phải có những giám sát biến động và đánh giá diễn biến của BĐKH thường xuyên và chi tiết để điều chỉnh kế hoạch ứng phó. Với những kết quả thu được từ hình ảnh vệ tinh, viễn thám cho thấy, tiềm năng ứng dụng khả quan của các dữ liệu GSMap, MODIS, Landsat… cho nhiều các giám sát liên quan đến sinh thái, môi trường, sản xuất của khu vực Đồng bằng SCL, là công cụ quan trọng hỗ trợ cho việc dự báo nhiễm mặn và chất lượng nước phục vụ sản xuất.

Minh Thư