Những lợi ích thiết thực từ trồng rừng ngập mặn

Môi trường - Ngày đăng : 00:00, 08/10/2013

Việc trồng rừng ngập mặn chẵng những góp phần bảo vệ môi trường, phòng chống gió bão mà còn giải quyết nhiều khó khăn về kinh tế và xã hội.
Từ năm 1996, Dự án trồng rừng ngập mặn của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam do Hội Chữ thập đỏ Đan Mạch và Hội chữ thập đỏ Nhật Bản tài trợ, đã trồng mới được hơn 10.000ha rừng ngập mặn tại 8 tỉnh ven biển miền Bắc, góp phần bảo vệ môi trường, phòng chống gió bão mà còn giải quyết nhiều khó khăn về kinh tế và xã hội của địa phương.  
 
   
  Để có kết luận một cách khách quan và khoa học về “Trồng rừng ngập mặn sẽ đem lại những lợi ích gì đối với môi trường và đời sống xã hội của người dân ven biển?”, nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên-Môi trường (CRES) do Phó Giáo sư Tiến sĩ Mai Sĩ Tuấn làm Chủ nhiệm, tiến hành điều tra đánh giá hiệu quả của Dự án trồng rừng ngập mặn tại 2 huyện là Nga Sơn (Thanh Hóa) và Diễn Châu (Nghệ An).    
   
Phòng ngừa thảm họa - cải thiện môi trường   
   
   
  Kết quả nghiên cứu đã cho thấy từ năm 1998 đến năm 2003, rừng ngập mặn được trồng mới và phục hồi tại 2 huyện Nga Sơn và Diễn Châu tổng cộng 720ha, đã che chắn và bảo vệ hiệu quả cho gần 20km đê biển của 2 huyện này. Rừng ngập mặn trồng sau 2-5 năm có nền đáy được nâng cao từ 20-40cm/năm; các đặc điểm lý-hóa của đất thay đổi cơ bản; năng suất lượng rơi của rừng từ 199,32g-585,12g/m2/năm là nguồn thức ăn cho nhiều loài thủy sinh vật. Thành phần các loài động vật, nhất là động vật đáy tăng lên nhanh chóng sau khi rừng được phục hồi.    
   
   
  Diện tích rừng ngập mặn được trồng mới với tác dụng bồi cao nền đất, đã hình thành nên một “bức tường xanh” vững chắc bảo vệ đê biển. Nhờ đó qua các mùa bão lũ, triều cường, các đoạn đê biển có rừng ngập mặn che chắn ở Nga Sơn và Diễn Châu đều không bị sạt lở, góp phần phòng ngừa thảm họa thiên nhiên. Chân đê còn được bồi tụ thêm đất giúp cho đê ngày càng vững chắc hơn, giảm đáng kể chi phí tu bổ đê điều hàng năm, bảo vệ tốt cuộc sống của người dân nơi vùng thương xuyên bị đe dọa bởi thiên tai.   
   
  Nhóm điều tra nghiên cứu cũng đã khảo sát được 26 loài thực vật trong 22 chi thuộc 15 họ tìm thấy trong rừng ngập mặn của 2 xã Nga Tân, Nga Thủy thuộc huyện Nga Sơn. Trong đó nhóm cây ngập mặn thực sự có 8 loài thuộc 8 chi, 7 họ thực vật. Tuy thực vật ở Nga Sơn, Diễn Châu chỉ chiếm khoảng 31% tổng số loài thực vật ngập mặn ở Việt Nam, nhưng số lượng cá thể của rừng ngập mặn ở đây rất cao so với nơi khác. Quần xã thực vật ngập mặn tuy mới hồi phục trong vòng vài năm, những đã phát huy vai trò tích cực trong cải tạo môi trường và bảo vệ bờ biển.   
   
  Mặc dù thành phần loài không nhiều, song vai trò của hệ thực vật rừng ngập mặn lại rất lớn. Cụ thể nhóm các cây làm thức ăn gia súc chiếm tới 65,4%, tiếp đến là nhóm cây sử dụng làm dược liệu chiếm 42,2%. Tỷ lệ nhóm cây cho gỗ, củi và bảo vệ môi trường chiếm tỷ lệ ngang nhau. Mặc dù chỉ chiếm tỷ lệ 23,1%, nhưng nhóm các loài cây cho ong lấy mật đóng vai trò quan trọng trong triển vọng phát triển kinh tế của địa phương. Phần lớn rừng trồng được chọn phổ biến là loài trang và bần chua. Nhưng nhờ đặc điểm ra hoa khá đồng loạt trong thời gian trên 1 tháng, lại có số lượng lớn nên lượng mật ong thu về khá lớn và tập trung trong thời gian khoảng 1 đến 1,5 tháng.   
   
Nâng cao đời sống người dân   
   
   
  Sau khi rừng được phục hồi, nhìn chung thành phần động vật đáy ở trong rừng ngập mặn tại Nga Sơn và Diễn Châu phong phú, đa dạng hơn về thành phần loài và nhiều hơn về số lượng cá thể hơn hẳn ở ngoài rừng. Trong đó có tới 76 loài động vật đáy thuộc 51 giống, 30 họ, 4 lớp. Lớp giáp xác có 38 loài; thân mềm chân bụng 18 loài; thân mềm 2 mảnh vỏ 16 loài. Có nhiều loài nhất là họ cua cát với 13 loài, tiếp đến là họ cua vuông 9 loài, những họ khác có từ 1-4 loài và có cả những giống loài sống ở vùng nước lợ. Các loài phân bố rộng như ốc dạ, cua vái trời, loài hến ưa nước ngọt...thể hiện tính đa dạng sinh học cao và là nguồn hải sản quý cho người dân địa phương.   
   
  Nhờ nguồn lợi thủy sản gia tăng từ việc hình thành nên những cánh rừng ngập mặn, thu nhập của của người dân trong vùng thụ hưởng Dự án được cải thiện đáng kể, nhất là phụ nữ và trẻ em. Theo kết quả điều tra, mỗi xã trung bình có đến 70 hộ thường xuyên đánh bắt cá, tôm, cua bằng cách thả đăng, lưới. Những hộ này có thể thu nhập khoảng 6 triệu đồng/năm; còn những hộ đánh bắt không thường xuyên, chỉ hoạt động trong mùa cua giống thì trung bình cũng thu về 700.000 đồng đến 2 triệu đồng/hộ/năm.   
   
  Trong số những người tham gia đánh bắt cua, cá trong rừng ngập mặn chủ yếu là nữ giới, sau đó là học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông. Do vậy từ khi có rừng hải sản phong phú hơn, phụ nữ ở các vùng này có thêm việc làm và việc kiếm tiền cũng dễ dàng hơn trước. Mặt khác, dự án trồng rừng ngập mặn tác động trực tiếp đến mức sống của các hội viên Hội chữ thập đỏ địa phương, thông qua việc trồng và bảo vệ rừng làm tăng kinh phí hoạt động và thu hút thêm nhiều hội viên. Mặc dù kinh tế của các hộ gia đình vùng rừng ngập mặn ở Nga Sơn, Diễn Châu vẫn còn nghèo, nhưng chi tiêu trong mỗi hộ cho việc học hành và mua quần áo chiếm tới 10-15% tổng thu, những chi tiêu này là từ nguồn thu nhập đánh bắt hải sản trong rừng ngập mặn.   
   
  Với 75-80% số dân sống gần rừng ngập mặn ở Nga Sơn và Diễn Châu tham gia vào các hoạt động đánh bắt hải sản trong rừng vào kỳ nông nhàn. Nguồn tài nguyên rừng ngập mặn cung cấp thêm việc làm, thu nhập đáng kể, góp phần giảm số lao động phải “ly hương” để tìm việc làm tại các thành phố. Vì vậy, từ người dân đến cán bộ lãnh đạo xã, huyện đều nhận thấy rất rõ vai trò to lớn của rừng ngập mặn trong phòng chống thiên tai, bảo tồn đa dạng sinh học và giải quyết kinh tế-xã hội vùng ven biển hiện nay.
   
  Văn Hào