Quy định về giấy phép môi trường sẽ theo hướng liên thông, tích hợp, thống nhất

Thời sự - Ngày đăng : 00:00, 14/11/2017

(TN&MT) - Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ môi trường và các luật có liên quan đến bảo vệ môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi...

 

(TN&MT) - Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ môi trường và các luật có liên quan đến bảo vệ môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng cần sửa đổi, bổ sung quy định về giấy phép môi trường theo hướng sử dụng hệ thống giấy phép liên thông, tích hợp, thống nhất.

Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, theo các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường hiện hành, sau đánh giá tác động môi trường, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đang sử dụng các loại giấy phép, công cụ để quản lý môi trường đối với các dự án, cơ sở như: Giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường, giấy phép xả thải vào nguồn nước; giấy phép hành nghề quản lý chất thải nguy hại; sổ chủ nguồn thải; phương án bảo vệ môi trường; kế hoạch quản lý môi trường. Do vậy, thực tiễn công tác quản lý, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở trong giai đoạn vận hành đang được thực hiện với sự chồng lấn giữa nhiều công cụ, trong đó, các cơ quan quản lý nhà nước vẫn chủ yếu tiến hành kiểm tra dựa trên báo cáo sau đánh giá tác động môi trường. Về mặt khoa học, báo cáo sau đánh giá tác động môi trường chỉ là một công cụ dự báo, phục vụ cho giai đoạn cấp phép cho dự án. Trên thực tiễn, trong giai đoạn vận hành, các vấn đề môi trường của cơ sở hoàn toàn có thể có khác biệt so với dự báo trong báo cáo sau đánh giá tác động môi trường, do đó việc kiểm tra và tiến hành các biện pháp cưỡng chế, xử phạt dựa trên báo cáo này là không hợp lý.

Tại Điều 67, 68, 70, Chương VII Luật Bảo vệ môi trường về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quy định về việc lập và thực hiện phương án bảo vệ môi trường; Điều 16 Nghị định 18/2015/NĐ-CP cũng đã quy định về kế hoạch quản lý môi trường, nhưng còn chưa rõ ràng, cụ thể. Đây là các công cụ quản lý môi trường trong giai đoạn hoạt động của cơ sở. Tuy nhiên, các công cụ này chưa đủ mạnh về mặt pháp lý vì vẫn chủ yếu do các cơ sở tự lập, tự thực hiện. Việc phải có một công cụ quản lý thống nhất, có tính pháp lý cao, cụ thể là giấy phép môi trường, là hết sức cần thiết và phù hợp với thực tiễn thế giới trong quá trình hội nhập.

Về mặt cấp phép môi trường, theo kinh nghiệm quốc tế, hiện có 2 phương thức chính: 1- Giấy phép môi trường hợp nhất (như đang áp dụng tại các nước EU); 2-Nhiều giấy phép môi trường đơn lẻ, mỗi vấn đề môi trường có một giấy phép riêng (như đang áp dụng tại Hoa Kỳ, Australia, Trung Quốc, một số nhóm đối tượng đặc thù tại các nước EU…). Thực tiễn áp dụng trên thế giới cho thấy không có ưu thế rõ rệt giữa 2 phương thức nêu trên, việc áp dụng phương thức nào còn tùy thuộc vào hệ thống pháp luật và tình hình thực tế của từng nước, tuy nhiên, đều bảo đảm nguyên tắc không chồng chéo, một đối tượng cụ thể không bị áp dụng cả 2 phương thức cấp phép.

Ở Việt Nam hiện nay đã tồn tại một số loại giấy phép môi trường theo cả 2 phương thức cấp phép nêu trên. Luật Tài nguyên nước quy định về giấy phép xả thải vào nguồn nước (là hình thức giấy phép đơn lẻ), trong khi đó Luật Bảo vệ môi trường quy định về giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường (là hình thức giấy phép hợp nhất). Việc tồn tại cả 2 phương thức cấp phép dẫn đến sự chồng lấn, mâu thuẫn trong nội dung cấp phép, phát sinh thủ tục, gây phiền toái cho các doanh nghiệp. Cụ thể: Việc xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường tại Khoản 2 Điều 27 Luật Bảo vệ môi trường đã bao gồm kiểm tra, xác nhận hiệu quả xử lý hệ thống xử lý nước thải. Trong khi đó, Điều 38 Luật Tài nguyên nước cũng quy định về việc lập hồ sơ xin phép xả thải vào nguồn nước của chủ dự án. Hai giấy phép này gần như cùng một nội dung mà doanh nghiệp phải xin 2 giấy phép, gây tốn kém, lãng phí.

Ngoài ra, còn khá nhiều thủ tục hành chính khác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trùng lặp về mục tiêu, nội dung, thẩm quyền (thực chất là một thủ tục) nhưng đang được quy định trong một luật hay bởi các luật khác nhau và theo đó được thực hiện theo các thủ tục khác nhau, gây lãng phí thời gian, chi phí xã hội. Do vậy, vấn đề cải cách hành chính và hợp nhất, liên thông các thủ tục hành chính về môi trường là một trong những nội dung ưu tiên để thực hiện chủ trương cải cách hành chính của Chính phủ.

Trên cơ sở đòi hỏi của thực tiễn về một công cụ quản lý môi trường thống nhất cũng như đẩy mạnh quá trình cải cách, giảm thủ tục hành chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất bổ sung các Điều 103a, 103b, 103c Mục 6. Quy định về giấy phép môi trường vào Chương IX. Quản lý chất thải. Theo đó, bổ sung các nội dung về: Vai trò, vị trí của giấy phép môi trường (là công cụ quản lý môi trường thống nhất đối với cơ sở khi đã đi vào giai đoạn hoạt động; là căn cứ để các cơ sở thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường và để các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm - thay cho việc kiểm tra căn cứ vào báo cáo sau đánh giá tác động môi trường như hiện nay); nội dung của giấy phép môi trường (có thể quy định phù hợp với đặc thù đối với từng loại ngành, nghề khác, nhóm đối tượng có rủi ro môi trường khác nhau); lập, phê duyệt và thực hiện giấy phép môi trường. Các quy định này sẽ thay thế toàn bộ các nội dung về giấy phép, thủ tục về môi trường đối với cơ sở trong giai đoạn hoạt động đang được quy định tại nhiều Luật và văn bản hướng dẫn khác nhau.

Nội dung bổ sung được đề xuất tại khoản 10 Điều 1 dự thảo Luật.

 

 

Đề nghị sửa đổi Luật bảo vệ môi trường

 

Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, Luật Bảo vệ môi trường hiện hành đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 23/6/2014 đến nay đã phát huy hiệu lực, hiệu quả về nhiều mặt, tạo hành lang pháp lý khá đầy đủ, toàn diện cho công tác bảo vệ môi trường.

Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhận thức về bảo vệ môi trường của mọi tầng lớp nhân dân ngày một nâng cao, yêu cầu bảo đảm phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường trở nên cấp thiết, trong khi đó các vấn đề môi trường diễn biến ngày càng nhanh, phức tạp và khó lường, đòi hỏi pháp luật bảo vệ môi trường phải sớm được cập nhật, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.

Qua thực tiễn triển khai thực hiện Luật bảo vệ môi trường và các quy định về bảo vệ môi trường tại các luật có liên quan thời gian qua cho thấy quy định pháp luật về bảo vệ môi trường cơ bản phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững nên đã phát huy được những tác động tích cực.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần thiết phải sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp với thực tế, tháo gỡ khó khăn cho bộ, ngành, địa phương và các đối tượng liên quan. Cụ thể, một số quy định trong pháp luật về bảo vệ môi trường còn chưa sát thực tế, thiếu cụ thể dẫn đến chậm đi vào cuộc sống, không theo kịp yêu cầu phát triển của thực tiễn. Bên cạnh đó, các quy định bảo vệ môi trường được quy định ở nhiều luật khác nhau (như Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng sản, dự thảo Luật Quy hoạch…), song giữa các luật này còn một số điểm còn có sự giao thoa, chưa thống nhất, còn một số khoảng trống chưa được quy định đã ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.

Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường chưa theo kịp, phù hợp và đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường. Các loại thuế, phí về môi trường theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả chi phí xử lý, khắc phục, cải tạo và phục hồi môi trường”, “người hưởng lợi từ giá trị môi trường phải trả tiền” mới chỉ bước đầu tạo nguồn thu cho ngân sách mà chưa phát huy được vai trò công cụ kinh tế điều tiết vĩ mô, hạn chế các hoạt động gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo hướng tăng trưởng xanh. Chưa tạo ra hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi để khuyến khích phát triển dịch vụ môi trường, sản phẩm thân thiện với môi trường, khuyến khích xã hội hóa trong một số hoạt động bảo vệ môi trường.

Thêm vào đó, việc phân công, phân cấp thẩm quyền trong quản lý chất thải vẫn còn chồng chéo và chưa hợp lý, chưa đi đôi với tăng cường năng lực, phân định rõ trách nhiệm. Việc phân công, phân cấp trách nhiệm, thẩm quyền trong việc giải quyết các sự cố môi trường có tính liên vùng, liên ngành chưa được quy định cụ thể, rõ ràng dẫn đến sự phối hợp không nhất quán, còn lúng túng, hiệu quả chưa cao khi có sự cố môi trường xảy ra. Các quy định của pháp luật mới chỉ chú trọng trách nhiệm từ phía Nhà nước, thiếu cơ chế phù hợp để phát huy hiệu quả sự tham gia của toàn xã hội, từng doanh nghiệp và người dân đối với công tác bảo vệ môi trường...

Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, để tiếp tục thể chế hóa chủ trương, quan điểm mới của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường; xây dựng hệ thống chính sách bảo vệ môi trường đồng bộ, sát với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế, việc xây dựng, trình Quốc hội xem xét, thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo vệ môi trường năm 2014 và các luật có liên quan liên quan đến bảo vệ môi trường là hết sức cần thiết, cấp bách.

 

PV