Hầu hết, các con sông lớn của Việt Nam có nguồn gốc từ các nước lân cận, do vậy, tài nguyên nước của Việt Nam dễ bị tổn thương do những hoạt động khai thác, sử dụng nước ở thượng nguồn.
Tài nguyên nước Việt Nam phụ thuộc vào các con sông quốc tế với hơn 60% tổng dòng chảy nước mặt trung bình hàng năm chảy vào từ các quốc gia thượng nguồn. Hai trong số các con sông quan trọng nhất của nền kinh tế phụ thuộc vào nguồn nước xuyên biên giới từ các nước láng giềng. Gần 95% lượng nước của sông Mê Công bắt nguồn từ ngoài biên giới, đến Việt Nam thông qua Campuchia và 40% của sông Hồng có nguồn gốc ở Trung Quốc (nguồn ADB).
Việt Nam hiện có hơn 100 lưu vực sông, với 3.450 sông, suối |
Ở Việt Nam, do các hoạt động kinh tế, không có lưu vực sông nào có nguồn nước mặt đáp ứng các tiêu chuẩn vệ sinh của WHO dành cho nước uống. Các đoạn sông chảy qua các thành phố lớn, như sông Tô Lịch, sông Sét và sông Kim Ngưu chảy qua Hà Nội; chất lượng nước sông Sài Gòn, Đồng Nai, hồ Dầu Tiếng, hồ Trị An, hồ Đá Đen (Bà Rịa - Vũng Tàu)… bị ô nhiễm nặng - đang gây lãng phí nguồn tài nguyên, rủi ro cho sức khỏe con người và các hệ sinh thái tự nhiên.
Chất lượng nước còn bị đe dọa bởi hoạt động khai thác thủy điện, vật liệu xây dựng, nuôi trồng thủy sản, khai thác khoáng sản. Việc xả thải từ các nhà máy, khu công nghiệp, hoạt động phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng đang tác động lớn đến chất lượng nước của hệ thống sông rạch. Nhiều hồ chứa cũng bị đe dọa do hoạt động xả thải, nuôi trồng thủy sản ngay trên lòng hồ… Những nguy cơ ô nhiễm đó đặt ra thách thức đối với các đơn vị sản xuất và cung cấp nước sạch cho người dân.
Bên cạnh đó, quá trình đô thị nhanh chóng cũng là nguyên nhân gia tăng tình trạng ô nhiễm nguồn nước. Nước thải công nghiệp và đô thị là nguồn gây ô nhiễm nguồn nước lớn nhất.
Theo thống kê của Bộ Xây dựng, chỉ có 46% hộ gia đình ở đô thị có đầu nối vào đường ống thoát nước và chỉ 12,5% nước thải đô thị được xử lý trước khi xả vào các nguồn nước (Bộ Xây dựng 2019). Trong 15 năm tới, nước thải đô thị dự kiến sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất của nước thải (khoảng 60%). Nước thải công nghiệp sẽ chiếm 25 - 28% và nước thải nông thôn là 12 - 15%.
Trong tổng số 587 cụm công nghiệp theo quy hoạch đã đi vào hoạt động, chỉ có 55 cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải chung (chiếm 9,4%). Phần lớn, nước thải từ các hộ sản xuất trong hơn 5.000 làng nghề chưa qua xử lý cùng nước thải sinh hoạt được xả vào hệ thống thoát nước mặt. Đó là chưa tính đến các cơ sở công nghiệp lớn nằm ngoài các khu công nghiệp, khu khám chữa bệnh tư nhân nằm rải rác chưa có hệ thống xử lý nước thải.
Mức độ ô nhiễm cao cũng hạn chế sự phát triển đô thị, sự phát triển bền vững và tương lai của ngành công nghiệp, nông nghiệp.
Ô nhiễm nước gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam sẽ tiêu tốn khoảng 12,4 - 18,6 triệu đô la mỗi ngày cho chi phí xử lý do ô nhiễm vào năm 2030 nếu không có các biện pháp xử lý kịp thời.
Nguồn cung cấp nước sạch được dự báo sẽ giống như tình trạng khan hiếm dầu hiện nay. Giải pháp cấp bách là cần quản trị nguồn nước hiệu quả.
Ngăn chặn hành động “ngược đãi” các dòng sông, hợp tác xử lý ô nhiễm môi trường, đảm bảo an ninh nguồn nước trên các dòng sông là những vấn đề cần phải ưu tiên để cho mạch nguồn chảy mãi. Bởi nếu không, tình trạng thiếu hụt nước sạch, những căn bệnh liên quan đến nguồn nước bị ô nhiễm vẫn ngày một trầm trọng.