Cuộc hải trình không bao giờ quên
Câu chuyện chở nước ngọt ra Trường Sa trên tàu Đại Khánh được cựu binh Trung tá Nguyễn Viết Chức nguyên là “chiến sĩ quản lý nước” trên tàu ngày ấy kể lại trong khí thế tự hào xúc động: “Đó là những ngày tháng bi tráng nhưng đẹp đẽ nhất của cán bộ chiến sĩ trên con tàu Đại Khánh chúng tôi. Nếu ngày ấy không có tình yêu Tổ quốc nồng nàn, thì không thể vượt qua gian khổ được. Những lúc gian nan nhất, là lúc tình yêu Tổ quốc ngời sáng. Bây giờ đã về đời thường rồi, nhưng chuyến tàu Đại Khánh ra Trường Sa ngày ấy là cuộc hải trình độc nhất vô nhị không thể nào quên”.
Cựu binh Nguyễn Viết Chức - nguyên chiến sĩ đã nhiều năm liền làm nhiệm vụ ở “quần đảo bão tố” hiện đang sống ở 1084 phường 11 TP Vũng Tàu bồi hồi nhớ lại: Sau gần một năm kể từ ngày Trường Sa giải phóng, trước yêu cầu khách quan xây dựng về hệ thống nhà ở, bố phòng quân sự và sinh tồn của bộ đội, Bộ Tư lệnh Hải quân đã giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 83 Công binh đem theo lương thực thực phẩm, nước ngọt khẩn cấp ra Trường Sa phục vụ cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh xây đảo, trong đó chú trọng đến vận chuyển nước ngọt bảo đảm cho xây dựng các công trình và ăn uống của bộ đội.
Con tàu đầu tiên mang tên Đại Khánh do Đại úy Lê Nhật Cát, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 83 Công binh Hải quân chỉ huy, chở 70 cán bộ chiến sĩ ra Trường Sa vào cuối tháng 4-1976. Trên tàu có 75 tấn sắt thép, xi măng, các loại vật liệu và 30 khối nước ngọt. Sau khi vượt khỏi cảng Cam Ranh tỉnh Khánh Hòa, tàu tăng tốc thẳng hướng Trường Sa. Sóng to gió lớn, 80% cán bộ chiến sĩ say sóng nôn thốc nôn tháo. Xác định “nước ngọt là sự sống các công trình”, bởi vậy, 30 khối nước ngọt để giành ưu tiên cho xây dựng nhà trên đảo. Ngay tại chuyến tàu này, Đại úy Lê Nhật Cát đã phát động phong trào tiết kiệm nước ngọt “mỗi người một lít một ngày”. Với chiếc “cà-mèn” của Liên Xô chừng một lít nước, chiếc khăn mặt bộ đội thấm cũng vơi hơn phân nửa, phần còn lại dùng đánh răng. Nhiều chiến sĩ không đánh răng, không gội đầu, răng xỉn màu vàng ố, tóc bết cứng như rễ tre. Có khi 2 người rửa chung một chiếc khăn mặt, tiết kiệm phần nước của mình cho đồng đội lau người. Những chiến sĩ say sóng nôn mửa, được ưu tiên thêm một “cà-mèn” để súc miệng nhiều lần.
Nhớ lại những ngày tháng gian khổ ấy, Trung tá Nguyễn Viết Chức chia sẻ: “Lúc đó ai cũng nghĩ đến việc xây đảo bảo vệ chủ quyền chứ không nề hà chuyện khó khăn thiếu thốn. Một ngày một “cà-mèn”, nhưng vẫn đủ sống. Ngày ấy, chuyện uống nước dằn (nước dưới hầm tàu) là thường, vậy mà vẫn khỏe, và hăng hái đi đảo, quần áo về đất liền mới giặt. Thiếu nước ngọt chứ không chiến sĩ nào thiếu tình yêu Tổ quốc”.
Gạn đục khơi trong
Sau 4 ngày vượt sóng gió, tàu Đại Khánh neo phía Tây Trường Sa Lớn. Gần 30 khối nước ngọt nhanh chóng ruôn vào can nhựa chuyển vào đảo. Ngày ấy chưa có xuồng máy như bây giờ nên nước ngọt trong can được buộc vào dây thừng, thả xuống biển để bộ đội kéo vào đảo. Ở đảo chìm dựng nhà cao cẳng, từng can nước ngọt được xếp quanh nhà, đảo nổi nước ngọt được đổ vào téc nhôm cũ của Ngụy để lại, can nhựa gửi lại tàu, đem về đất liền để đựng nước ngọt, cho chuyến mới.
Trong khi các chiến sĩ xây đảo hàng ngày hàng giờ đối mặt với bao khó khăn gian khổ, thì cán bộ chiến sĩ trên tàu Đại Khánh cũng bước vào “cuộc chiến đấu mới”- “cuộc chiến đấu” với lọc nước dằn dưới hầm tàu để ăn uống và rửa mặt đánh răng. Ngày tàu Đại Khánh hành quân về đất liền cũng là lúc nước ngọt cạn kiệt. Tất cả cán bộ chiến sĩ trên tàu đều thực hiện “3 không”. “Không tắm, không giặt, không lau”. Hầm nước ngọt dự trữ còn hơn gang tay, nhưng đục ngầu và nhiễm gỉ sét vì tàu tròng trành lắc mạnh do sóng gió. Buổi sáng, mỗi người chỉ một ca nhỏ để súc miệng, không rửa mặt bằng khăn mà dùng tay.
Để có nước nấu cơm, các chiến sĩ phải múc nước dằn (nước gỉ sét dưới đáy tàu), lấy áo lót làm tấm lọc để lọc nước. Nhiều lúc anh em thèm ly nước trà cháy họng nhưng đành ngậm ngùi quên đi. Chiều, anh em ra mũi tàu tắm gió, người nọ kỳ lưng cho người kia, gét bong ra như vỏ khoai lang.
Trung tá Nguyễn Viết Chức chia sẻ: “Đi Trường Sa ngày ấy xác định là hi sinh không hẹn ngày về nhưng chúng tôi rất hăng hái. Hành trình trong điều kiện sóng gió, bí mật, lại phải ăn uống kham khổ, nhưng không ai phai nhạt ý chí. Không chỉ tàu Đại Khánh, mà sau này những tàu khác chở sắt, thép, nước ngọt ra Trường Sa xây đảo vẫn phải gạn nước dằn để ăn uống. Cuộc hải trình của tàu Đại Khánh ngày ấy đã trở thành cuộc hải trình độc nhất vô nhị, đó cũng là thắng lợi đầu tiên để các tàu khác sau này noi theo”.
Cuộc sống của những người lính Công binh Hải quân xây đảo gắn liền với nước ngọt. Những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, nước ngọt ở Trường Sa đồng nghĩa với khó khăn sinh tử. Cán bộ chiến sĩ Công binh Hải quân Trung đoàn 83 đã bước vào cuộc chiến đấu mới để xây dựng những “loa thành mang dáng hình Tổ quốc”. Kỳ 3 “Cuộc chiến chống khát”.