(TN&MT) - Tình trạng buôn bán ĐVHD trái phép đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến đa dạng sinh học của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, nhiều ý kiến ủng hộ quan điểm hợp pháp hóa gây nuôi thương mại và buôn bán ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm cho rằng gây nuôi thương mại vừa là một giải pháp phát triển kinh tế vừa có giá trị bảo tồn.
Tuy nhiên, càng ngày càng có nhiều tổ chức, cá nhân, các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách hay những cán bộ thực thi pháp luật – những người đi đầu trong công tác đấu tranh chống tội phạm về ĐVHD ủng hộ quan điểm của các nhà bảo tồn về sự cần thiết phải nghiêm cấm gây nuôi thương mại và buôn bán ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm. Những ý kiến này lên án mọi hoạt động thương mại liên quan đến ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm cũng như quan ngại sâu sắc về những lý do của những người ủng hộ gây nuôi thương mại các loài này khi đưa lý do kinh tế lên trên tầm quan trọng của việc bảo vệ các loài ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm trong tự nhiên. Những người phản đối cũng đồng thời cho rằng hợp pháp hóa hoạt động gây nuôi thương mại và buôn bán các loài ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm là “con đường dẫn đến sự tuyệt chủng.”
Bà Bùi Thị Hà, Phó Giám đốc ENV chia sẻ:“Chúng tôi cho rằng gây nuôi thương mại và buôn bán ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm sẽ gia tăng nhanh chóng nguy cơ tuyệt chủng của những loài này. Việc đem tương lai của nhiều loài ĐVHD nguy cấp bậc nhất trên thế giới để đánh đổi lấy lợi nhuận của một nhóm người là vô cùng mạo hiểm.”
Bà Hà cũng giải thích quan điểm của ENV về sự cần thiết nghiêm cấm tuyệt đối mọi hình thức gây nuôi thương mại và buôn bán các loài ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm được bảo vệ theo quy định của pháp luật Việt Nam và thế giới. Công tác bảo tồn ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm không thể diễn ra song hành với hoạt động gây nuôi thương mại những loài này. Trong khi mục tiêu của bảo tồn là để bảo vệ nền đa dạng sinh học, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội, thì mối quan tâm hàng đầu của chủ các cơ sở gây nuôi là lợi nhuận. Các cơ sở gây nuôi thương mại vì vậy sẽ không đầu tư vào cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sinh sản hay có kiến thức để đảm bảo tránh giao phối cận huyết, lai tạp nguồn gen, những điều kiện cơ bản để tái thả ĐVHD về tự nhiên (nếu có). Hơn nữa, hầu hết các cá thể ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm được gây nuôi đã bị mất đi bản năng sinh tồn và kĩ năng cần thiết giúp chúng sống sót trong tự nhiên nếu được tái thả.
Bên cạnh đó, theo nhiều chuyên gia tại buổi họp báo nhu cầu tiêu thụ sản phẩm từ ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm nhiều khả năng sẽ tăng lên đáng kể nếu các sản phẩm hiện đang bị cấm này được phép lưu hành trên thị trường.
Toàn cảnh buổi họp báo |
Khi sản phẩm từ ĐVHD sẵn có trên thị trường, nhiều người vốn chưa từng có nhu cầu sử dụng có thể sẽ “thử” sử dụng các sản phẩm từ ĐVHD. Cùng với việc nhu cầu tiêu thụ tang lên là sự gia tăng tình trạng săn bắn ĐVHD trái phép ngoài tự nhiên để đáp ứng nhu cầu đó.
Ngoài ra, một số loài ĐVHD hiện đã được gây nuôi thành công nhưng vẫn tiếp tục bị săn bắt ngoài tự nhiên vì chi phí đầu tư để khai thác ngoài tự nhiên rẻ hơn rất nhiều so với đầu tư gây nuôi. Trong một số trường hợp, ĐVHD có nguồn gốc từ tự nhiên còn được ưa chuộng hơn ĐVHD được sinh sản trong môi trường nuôi nhốt.
PGS. TS. Lê Xuân Cảnh, Nguyên Viện trưởng Viện sinh thái và Tài nguyên Sinh vật – một trong những cơ quan khoa học CITES Việt Nam nhận định: “Việc gây nuôi ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm có thể mang lại lợi nhuận cho một số người, song nó lại đe dọa nghiêm trọng đa dạng sinh học đất nước.”
Tại buổi họp báo, ENV cũng công bố kết quả cuộc khảo sát hoạt động gây nuôi thương mại ĐVHD ở các trang trại Việt Nam được thực hiện năm 2014- 2015. Kết quả khảo sát cho thấy tình trạng nhập lậu ĐVHD và lợi dụng những kẽ hở của pháp luật để buôn bán trái phép ĐVHD đã diễn ra rất phổ biến tại các cơ sở được cấp phép gây nuôi. ENV cũng đưa ra những ví dụ xác đáng cho thấy những lỗ hổng trong thực thi pháp luật quản lý hoạt động gây nuôi ĐVHD nguy cấp quý hiếm như vụ việc vợ một đối tượng ở Nghệ An có hai tiền án vi phạm về buôn bán hổ đã được cấp phép nuôi hổ vì mục đích “giáo dục và bảo tồn” xảy ra gần đây.
Một ví dụ khác là việc cơ quan chức năng Tây Ninh và Quảng Bình đã cấp phép cho nhiều cơ sở “gây nuôi” tê tê bất chấp thực tế rằng tê tê là loài động vật vốn không dễ sinh sản và sinh trưởng trong môi trường nuôi nhốt. Tê tê cũng là loài nguy cấp, quý, hiếm, được bảo vệ ở mức độ cao nhất của pháp luật. Qua điều tra, chủ các cơ sở ở hai địa phương này đã có hành vi nhập lậu các cá thể tê tê săn bắt trái phép ngoài tự nhiên.
Nguyễn Cường