Gia tăng sức ép
Theo báo cáo từ Chương trình Quan trắc chất lượng nước ven biển ven bờ được Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam thực hiện, hầu hết, giá trị các thông số đặc trưng cho chất lượng nước biển (DO, Nitrat, Photsphat, kim loại nặng…) nằm trong giới hạn cho phép của quy chuẩn Việt Nam QCVN 10-MT:2015/BTNMT. Các mẫu nước được thu thập ít nhất hai lần mỗi năm tại 19 trạm dọc theo bờ biển Việt Nam (16 chỉ tiêu một trạm).
Theo kết quả quan trắc, chất lượng nước biển ven bờ Việt Nam nhìn chung còn khá tốt. Tuy vậy, do ảnh hưởng từ khu vực cửa sông và chất thải từ các hoạt động phát triển kinh tế ven biển nên một số vùng biển ven bờ có hàm lượng chất rắn lơ lửng (TSS) cao hơn quy chuẩn. Ngoài ra, sự gia tăng hàm lượng chất hữu cơ và dầu mỡ là vấn đề quan tâm đối với chất lượng nước biển ven bờ ở Việt Nam. Hiện nay, các điểm nóng ô nhiễm nước biển là Hải Phòng - Quảng Ninh, Đà Nẵng - Dung Quất, Ganh Rai - Vũng Tàu, Rạch Giá - Hà Tiên.
Phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển đã ảnh hưởng đến sự ổn định của bờ biển. Ảnh: TL |
Ô nhiễm nước ven biển một phần còn do sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón trong nông nghiệp, đổ chất thải và sự cố tràn chất thải ra biển. Đó là hệ quả của sự phát triển quá mức của các khu đô thị ven biển và các hoạt động du lịch đang mở rộng ở nhiều địa phương, góp phần gia tăng lượng chất thải chưa được xử lý đưa vào môi trường biển. Đây là nguồn gây ô nhiễm nghiêm trọng cho tại vùng bờ, vì chất thải sẽ tạo ra các chất độc hại cho môi trường và sinh vật.
Với tổng diện tích nuôi tôm hơn 600.000 ha, hàng năm, có gần 3 triệu tấn chất thải rắn thải ra môi trường. Hầu như tất cả rác thải từ làng chài được thải ra biển mà không được xử lý, kể cả xỉ than đun nấu, rất khó thu gom, dẫn đến ô nhiễm biển, ngăn dòng chảy ở một số kênh. Ngoài ra, vận chuyển, thăm dò và khai thác dầu khí đang gia tăng, dẫn đến nguy cơ ô nhiễm biển do sự cố tràn dầu và hóa chất.
Sự phát triển của các hoạt động kinh tế và xã hội ở vùng ven biển đã ảnh hưởng đến sự ổn định của bờ biển. Sự phá hủy môi trường sống và cảnh quan ven biển như rừng ngập mặn, rạn san hô, rừng phòng hộ, làm giảm và loại bỏ khả năng tự bảo vệ của bờ biển và giá trị thẩm mỹ của chúng. Khai thác khoáng sản ở các bãi cát và cồn cát ven biển làm xáo trộn sự cân bằng tự nhiên của địa hình ven biển và phá hủy thảm thực vật. Sự bất ổn định của bờ biển gia tăng do ảnh hưởng của thiên tai, như bão, lũ lụt, thủy triều và nước biển dâng, bao gồm cả mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu.
Ngoài ra, sự an toàn của sinh kế ven biển cũng bị đe dọa bởi thực tế là sự phát triển quá gần biển mà lại thiếu sự hiểu biết về các quá trình tự nhiên ven biển.
Gia tăng suy thoái tài nguyên sinh vật
Các nhà khoa học đánh giá, sự suy giảm chất lượng môi trường biển và ven biển đang tác động xấu lên sinh vật biển và mất đa dạng sinh học. Qua điều tra chứng minh, nhiều loài sinh vật biển giảm số lượng, một số loài đã bị tuyệt chủng cục bộ. Theo đó, đã có 236 loài sinh vật quý hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng, trong đó, có hơn 70 loài sinh vật biển được liệt kê trong Sách đỏ của Việt Nam. Nhiều loài trong số này vẫn đang được khai thác dưới nhiều hình thức phi pháp. Sự suy giảm đa dạng sinh học đã dẫn đến sự suy giảm số lượng các loài có giá trị kinh tế cao.
Báo cáo NSOC của Việt Nam được xây dựng nhằm Hỗ trợ Hệ thống quản lý thông tin về biển và vùng bờ thông qua việc biên tập dữ liệu và thông tin thu thập được từ các cơ quan liên quan khác nhau làm thông tin nền cho việc đánh giá biển và ven biển của Việt Nam; hỗ trợ đánh giá nền kinh tế biển xanh và giám sát việc thực hiện SDS-SEA, SDGs, các cam kết quốc tế khác và các chính sách và luật pháp quốc gia liên quan; hỗ trợ xây dựng chính sách, lập kế hoạch và quản lý các vùng biển và ven biển của đất nước về tài nguyên thiên nhiên, môi trường, hoạt động và đầu tư của các ngành kinh tế, thúc đẩy hợp tác giữa các cơ quan; giám sát Chương trình đánh giá tính dễ bị tổn thương và thích ứng để phát triển nền kinh tế biển xanh ở Việt Nam
Tài nguyên thủy sản cũng đang bị khai thác một cách không bền vững nên dần cạn kiệt, suy giảm cả về số lượng và chất lượng. Dự trữ cá đã giảm, từ 4 triệu tấn năm 1990 xuống còn dưới 3 triệu tấn đến thời điểm hiện nay. Nguồn cá có giá trị kinh tế cao đã giảm đáng kể. Kích thước trung bình của đa dạng cá và loài cũng giảm. Lý do chính là sự gia tăng xuất khẩu thủy sản, dẫn đến việc đánh bắt thủy sản hàng năm vượt quá dự trữ có sẵn. Ngoài ra, các phương pháp đánh bắt bất hợp pháp và phá hoại, như chất nổ, xyanua, xung điện, không được kiểm soát, không chỉ làm cạn kiệt tài nguyên biển, mà còn làm hỏng môi trường sống của cá. Đặc biệt, dư lượng thuốc trừ sâu trôi ra biển, được tích lũy thông qua các mức dinh dưỡng của chuỗi thức ăn đã làm suy giảm số lượng và chất lượng loài.
Ví dụ, một số loài cá quan trọng sống trên các rạn san hô bị giảm nghiêm trọng, như: Tôm, tôm hùm, hải sâm, và cá bướm, đặc biệt là ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Bình Định, Cà Ná, Nha Trang, Côn Đảo và Phú Quốc. Điều này là do việc khai thác san hô, sử dụng hóa chất trong đánh bắt, điều hướng, du lịch và một phần do bão.
Tương tự như các rạn san hô, sự suy thoái của thảm cỏ biển và rừng ngập mặn do các hoạt động của con người, dẫn đến sự hủy hoại môi trường ở nhiều khu vực ven biển của Việt Nam.
Mức độ thiệt hại về nguồn lợi từ biển do suy thoái môi trường đã thấy rõ, Báo cáo hiện trạng môi trường biển và biển ven bờ Việt Nam một lần nữa gióng lên hồi chuông cảnh báo về một tương lai không còn màu xanh của biển nếu như chúng ta không nhanh chóng chuyển đổi nền kinh tế biển xanh..